Tác giả Nguyễn Duy Chính
MINH GIÁO
NGUYỄN DUY CHÍNH
Hình như ai
trong chúng ta khi đọc Ỷ Thiên Ðồ Long Ký
của Kim Dung đều tự hỏi Minh Giáo 明教 có thực hay
không, những bang phái, giáo hội đã sinh hoạt và ảnh hưởng thế nào trong xã
hội.
Theo bộ tiểu
thuyết kiếm hiệp này, Minh Giáo là một tôn giáo được tổ chức chặt chẽ và quy
mô, đứng đầu phe tà và đã từng nhiều lần đụng độ với phe chính phái. Sự xuất
hiện của họ thật kỳ bí và như một tấm màn dần dần vén lên, mỗi lúc lại cho
chúng ta biết thêm một số chi tiết về hoạt động, về tổ chức cũng như về giáo quy
của họ.
Trong sử sách,
Minh Giáo cũng được nhắc đến, tuy không phong phú như những tôn giáo khác,
nhưng đại biểu cho hệ thống tư tưởng nhị nguyên là hệ thống dễ dàng được chấp
nhận vì phân biệt trắng đen, thiện ác, có những tiêu chuẩn nhất định không mơ
hồ như hệ thống nhất nguyên.
Nhìn theo quan
điểm xã hội, hệ thống tư tưởng của Minh Giáo lại tương đồng với Tây Phương và
trong một thời gian khá dài, những cơ sở đó tranh huy với những tôn giáo khác,
tuy trên bình diện triết học không áo diệu bằng Phật Học hay Lão Học, nhưng về
phương diện tổ chức, Minh Giáo có tính quần chúng hơn và phát triển cũng có quy
củ hơn.
Chỉ về sau này,
khi Nho Giáo được đưa lên thành hệ thống học thuật làm thước đo cho khả năng
của kẻ sĩ và đẩy lùi các tôn giáo khác ra khỏi quan trường, Minh Giáo mới suy
yếu và dần dần biến mất.
MINH GIÁO: BÁI
HỎA GIÁO HAY MA NI GIÁO?
Khi nói tới Ba
Tư (tức Iran ngày nay), chúng ta vẫn hình dung đó là xứ “nghìn lẻ một đêm”
với những chuyện thần kỳ thật phong phú. Ít ai biết rằng ở những thế kỷ đầu
Công Nguyên, khu vực Trung Ðông có nhiều giao tiếp với Trung Hoa, và tôn giáo
của họ khi đó cũng khác hẳn với thế giới Muslim chúng ta thấy ngày nay. Ba Tư
cũng có những triều đại thân cận với nước Tàu nên mỗi khi bị xâm chiếm lại chạy
qua Trung Hoa cầu cứu và nhờ viện binh để quay về “phục quốc”, như một số vương
tôn ở nước ta.
Ðời nhà Ðường,
vì gốc tích của hoàng gia mang giòng máu ngoại vực, việc trao đổi văn hóa giữa
Trung Ðông và Hán tộc được dễ dàng đưa đến chính sách tương đối khai phóng đem
lại phát triển và thịnh trị. Không những khoa học, kỹ thuật, các loại sản phẩm
công nghiệp được trao đổi, mà tôn giáo từ bên ngoài cũng du nhập Trung thổ rất
nhiều.
Thời kỳ đó, phía
Tây Trung Hoa có một chi lưu của người Khương tương đối phát triển là Thổ Phồn (tổ
tiên của dân tộc Tây Tạng ngày nay). Khi vua Ðường Thái Tông lên ngôi (626 Công
Nguyên), vua nước Thổ Phồn là Tùng Tán Hãn Bố giao hiếu với Trung Hoa, được vua
nhà Ðường gả Công Chúa Văn Thành (641 Công Nguyên).
Sử sách chép rằng
Công Chúa mang theo một đoàn tùy tùng đến hơn năm ngàn năm trăm người, lại
không biết bao nhiêu là sản vật, gia súc, tư trang, hàng hóa. Từ đó những vương
tôn công tử nước Thổ Phồn sang Trường An du học mở đầu cho một thời kỳ giao lưu
văn hóa giữa Trung thổ và các nước phía Tây. Các phát kiến của Trung Hoa như
nông cụ, dệt vải, nuôi tằm, xây cất, làm giấy, đồ gốm, luyện kim, lịch toán, y
học... theo đó truyền ra ngoài và ngược lại nhiều kỹ thuật từ các nước Trung
Ðông cũng truyền vào nước Tàu.([1])
Về tôn giáo,
việc truyền bá từ bên ngoài vào Trung Hoa đã có từ lâu. Ngay thời Nam Bắc
Triều, một tôn giáo từ Ba Tư có tên là Bái Hỏa Giáo 拜火教 (Zoroastrianism) được truyền vào Trung
Quốc. Tôn giáo này do một người Ba Tư tên là Zarathushtra – nguyên nghĩa là con
lạc đà già – thành lập từ thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên tại Ðại Hạ (nay ở
biên giới A Phú Hãn). Người ta gọi họ là Majus hay Mazdeans.
Giáo đồ của tôn
giáo này lấy kinh của Ba Tư là A Duy Tư
Ðà (Avesta Gatha)([2])
làm kinh điển, chủ trương phân ra làm hai bên thiện ác, nhị nguyên. Theo họ,
việc gì quang minh, lửa, thanh tĩnh, sáng tạo, sự sống thuộc về thiện đoan. Còn
hắc ám, ác, dơ bẩn, phá hoại, chết thuộc về ác đoan. Con người được tự do chọn
lựa để làm điều thiện hay điều ác. Khi chết đi sẽ được Thượng Đế (tức Ahura
Mazda) phán xét; ai qua được thì lên thiên đường, người nào không qua thì xuống
địa ngục. Vì thế khi còn sống mọi người phải làm lành, lánh dữ, bỏ chỗ tối mà
tìm chỗ sáng. Châm ngôn đạo đức của họ là nghĩ điều lành, nói điều lành, làm
điều lành. Họ có một nghi thức riêng để lễ “thánh hỏa” dưới quyền
chủ tế của một “majus”. Tôn giáo này có thời là quốc giáo của Ba Tư
trong triều đại Sasanian.
Ðạo Bái Hỏa
truyền vào bắc Trung Hoa khoảng năm 516-519 theo phái đoàn của người Ba Tư. Ðến
đời Tùy, họ được thành lập ở Trường An những khu vực riêng để hành đạo. Ngoài việc trao đổi các sứ thần giữa hai bên, các
thương nhân Ba Tư cũng sang Trung Hoa buôn bán. Hiện nay, tại Quảng Châu, Tuyền
Châu, Dương Châu, Trường An, và Lạc Dương vẫn còn nhiều dấu tích của người Ba
Tư thời đó.
Năm 621, đền thờ (shrine)
đầu tiên được xây dựng cho người Hồ ở kinh đô và đến năm 631 thì một tu sĩ (magi) được vào làm quan trong triều. Ðến
năm 652, khi người Muslim (Islam) từ Ả Rập sang xâm chiếm Ba Tư, họ bị đánh
đuổi, một phần chạy sang phía tây nước Ấn (nay còn lại ở Bombay được gọi là
Parsees có nghĩa là người Persian, tức người Ba Tư) nhưng một số lớn chạy sang
Trung Hoa, khi đó vào đời nhà Ðường. Vua cuối cùng của triều đại Sasanian là
Yazdegird đệ tam (Yazdagard III) cầu viện vua Ðường Thái Tông để đem quân khôi
phục đất nước. Tuy nhiên, nhà Ðường từ chối và họ đành phải sống lưu vong với
dân chúng vùng Tân Cương ở Trung Á nhưng lại bị thổ dân phản bội. Gần đây, khi khai quật một số địa điểm vùng Tây An,
người ta đã tìm thấy một số tiền làm bằng bạc của Ba Tư thời kỳ này, nhiều mộ
chí bằng cả hai thứ tiếng Ba Tư và chữ Hán (Dư Tử Lựu, tr. 183).
Nhà Ðường tiếp tục bảo vệ con của Yazdegird là Peroz
(Firuz) và cho phép họ được xây cất đền thờ và tiếp tục hành đạo. Peroz vẫn
được công nhận là vua nước Ba Tư và được phong một chức võ quan tại triều. Ông
ta chết ở Trường An và con là Narseh được tập tước vương. Narseh cố gắng đem
quân Tàu về lấy lại nước nhưng thất bại và những người thuộc triều đại Sasanian
định cư tại Trung Hoa trong khoảng 200 năm. Một số tiểu quốc được hình thành
nằm giữa biên giới Ba Tư và Trung Hoa không theo đạo Hồi (Islam), độc lập đã
tồn tại trong nhiều năm và nhiều phái bộ, sứ thần đã đến kinh đô nhà Ðường
trong khoảng 713-755 Công Nguyên.
Những cư dân của các tiểu quốc này trở thành những
người buôn ngọc, phù thủy, thợ thủ công và thương nhân. Họ xây dựng bốn, năm
tiên từ (thánh đường) tại Trường An; hai, ba tiên từ tại Lạc Dương; một tại
Khai Phong và nhiều nơi khác như Dương Châu, Ðôn Hoàng, Thái Nguyên… Họ cũng di
cư đến nhiều nơi khác, có người tới tận Hải
Ðến năm 845, nhà Tống tiêu diệt tôn giáo và bài xích
tất cả các đạo từ nước ngoài truyền vào, nhất là đạo Phật, thành thử Bái Hỏa Giáo
cũng bị tiêu diệt. Vì họ coi lửa là đại biểu của quang minh (sáng sủa), nên
việc thờ phụng “lửa thần” (thánh hỏa) là nghi lễ chính yếu. Người Trung
Hoa gọi tôn giáo này dưới nhiều tên như Tiên Giáo, Hỏa Tiên Giáo, Bái Hỏa
Giáo, Ba Tư Giáo… Bái Hỏa Giáo đến đời Nguyên hay Minh thì không còn ai
biết đến.
Theo sách vở, Bái Hỏa Giáo là một tôn giáo chỉ thu
hẹp trong phạm vi chủng tộc và không chủ trương bành trướng hay “độ” người ta
theo đạo. Kinh điển của họ không được dịch sang tiếng Tàu và có lẽ người Tàu
cũng không “cải giáo” theo đạo này. Tuy nhiên, họ cũng đem lại một số ảnh
hưởng, vì đời Ðường là triều đại mở cửa nên nhiều kỹ thuật mới được du nhập,
nhiều sắc thái văn hóa được đón nhận trong sinh hoạt hằng ngày.
Một tôn giáo
khác cũng truyền từ Ba Tư là Ma Ni Giáo (tức Manichaeism, do Mani người Ba Tư
sáng lập vào thế kỷ thứ III Công Nguyên). Ma Ni Giáo kết hợp nhị nguyên luận
của Bái Hỏa Giáo, đồng thời dung hợp nhiều tôn giáo trong đó có một số tư tưởng
của Phật Giáo và Ki-tô Giáo mà thành. Ma Ni Giáo được gọi là tôn giáo của ánh
sáng (Religion of Light) và truyền
vào Trung Hoa qua nhiều sự tích ly kỳ. Cho đến giờ phút này, người ta vẫn chưa
rõ Mani là tên người hay là một cách xưng hô tôn quý. Nghĩa của chữ này cũng
không rõ ràng, theo cổ ngữ Hy Lạp thì là skeuos
và homilia, nhưng hình như nguyên
thủy lại bắt nguồn từ tiếng Babylonian-Aramaic có nghĩa là Vua của Ánh Sáng.
Mani sinh ra tại
Baghdad, khoảng thế kỷ thứ III, dưới thời mà người Ba Tư làm chủ cả khu vực
Mesopotamia, ngày nay là Iraq. Cha ông hình như là người Mandaeans. Sau khi đi nhiều
nơi trong vài năm, sống đời khổ hạnh để suy tưởng về giáo lý, năm 242 (có chỗ
chép rõ là ngày 20-3) ông được mạc khải và tự cho mình là một nhà tiên tri
(ngôn sứ, prophet), lập nên một giáo
phái mới. “Cũng như Phật Thích Ca đến Ấn Ðộ, Zoroaster [tức
Zarathustra theo tiếng Hy Lạp] với Ba Tư, hay Chúa Giê-su đến miền Tây, thời kỳ này thiên sứ đến
với Ta, tức Mani, đến với vùng Babylonia.” Ðó là lời tuyên bố của ông và tự cho mình là một tông đồ của Thượng Đế.
Ông
lại đi lên Bactria ở miền tây bắc Ấn Ðộ, và nghiên cứu thêm về Phật Giáo. Ông
chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Gnostic (một nhánh của Ki-tô Giáo thời kỳ
sơ khai, bị coi như tà giáo). Năm 241, ông quay về Ba Tư sau khi vua Shapur đệ
Nhất lên ngôi, là người dung chứa các tôn giáo. Ông bắt đầu truyền giáo, dung
hợp cả tư tưởng Gnostic, Bái Hỏa Giáo, Ki-tô Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo, và
những tôn giáo địa phương tại Ba Tư.
Trong suốt thời
vua Shapur, ông được tự do truyền giáo và hoạt động trong khối giáo đồ của
mình. Thế nhưng khi vua Bahram đệ Nhất lên ngôi, người Bái Hỏa Giáo coi Mani là
thù nghịch. Mani bị cầm tù và bị đóng đinh, xác bị bêu tại cổng thành để răn đe
những người theo ông. Những tín đồ của Ma Ni Giáo cũng bị tàn sát không thương
tiếc. Theo sử sách, Mani chết khoảng 276-277 Công Nguyên. Tôn giáo của ông
truyền sang tận Bắc Phi, Nam Âu, và Trung Hoa.
Tư tưởng chính
yếu của Ma Ni Giáo là nhị nguyên đối đãi và mục tiêu của con người là làm sao
giải thoát được bằng cách khai mở luồng ánh sáng vốn bị vật chất giam hãm. Có
hai đẳng cấp trong giáo phái này, đẳng cấp tu sĩ là thành phần được “thiên
khải”, và “giáo đồ” là đại số quần chúng phục vụ cho thành phần được Thượng Ðế
lựa chọn. Tu sĩ sống độc thân, khắc kỷ, chỉ lo đi truyền giáo và học đạo. Những
tu sĩ chắc chắn sẽ được giải thoát ngay khi chết vì họ đã được ân sủng của Thượng
Ðế. Giáo đồ có quyền lập gia đình nhưng phải chăm lo phục vụ các trưởng lão, và
khi chết đi sẽ được tái sinh làm tu sĩ. Chính đạo này, dưới cái tên Ma Ni Giáo,
Minh Tôn Giáo hay Minh Giáo đã ảnh hưởng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của
Trung Hoa trong một thời gian khá dài, hơn hẳn những tôn giáo khác cũng phát xuất
từ Ba Tư.
Ma Ni Giáo
truyền vào Trung thổ khoảng năm 694 đời nhà Ðường, mặc dù đạo này có một số ảnh
hưởng đến Lão Giáo từ trước đó. Năm 694 cuốn Nhị Tông Kinh (Erzongjing)
bộ kinh chính yếu của họ được đem vào nước Tàu.
Theo Minh Sử
viết vào thế kỷ thứ XVII, một tu sĩ vào truyền giáo dưới thời vua Cao Tông
(650-683) nhưng nhiều học giả không đồng ý mà chỉ công nhận là năm 719 có một
đại trưởng lão của họ từ Tokharistan đến mà thôi. Năm 732, trong một chỉ dụ của
nhà Ðường có nhắc tới họ đi truyền tà giáo mang danh nghĩa một tông phái của
đạo Phật. Tuy nhiên vì đây là một tôn giáo của người Hồ nên triều đình không
cấm chỉ, miễn là họ giới hạn việc sinh hoạt trong những dân tộc thiểu số.
Năm 745, người
Hồi Hột (Uighur) kiến tạo một vương
quốc rộng lớn, kéo dài từ sông Y Lê (Ili)
đến tận Hoàng Hà. Một trong những tiểu vương (khans) theo Ma Ni Giáo năm 762 và Ma Ni Giáo trở thành quốc giáo
của Tân Cương. Tới lúc đó, một số lớn người Hồi Hột đã cải đạo theo Ma Ni Giáo
và sau khi họ giúp nhà Ðường chống lại loạn An Lộc Sơn, một số đông người Hán
cũng theo. Họ có thể đã xây cất nhiều đền đài từ trước nhưng sách vở chỉ chắc
chắn là có một đền Ma Ni – dưới tên chữ Hán là Ðại Vân Quang Minh 大雲光明 được thành lập tại Trường An năm 768.
Khoảng năm 771,
tại các vùng Kinh, Dương, Hồng (Nam xương), Việt (Thiệu Hưng) cũng có đền Ma Ni
và đầu thế kỷ thứ IX, tại Lạc Dương, Thái Nguyên đã có những đền thờ của họ
được xây cất. Như vậy xét về mặt địa lý, Ma Ni Giáo bành trướng từ miền Tây
Trung Hoa lan sang tận miền đông, sát bờ biển.
Ðến năm 842-843, khi dân tộc Hồi Hột suy yếu vì bị
người Kirghiz đánh bại, triều đình lại bắt đầu một chính sách bài giáo, đặc
biệt là những tôn giáo từ bên ngoài truyền vào Trung thổ, nhất là Phật Giáo. Ma
Ni Giáo cũng bị càn quét, đền đài bị phá hủy, của cải bị tịch thu, kinh sách bị
đốt. Tại Trường An, hơn bảy mươi nữ tu Ma Ni bị giết. Từ đó họ phải lui vào
bóng tối, hoạt động âm thầm và biến thành một đoàn thể bí mật.
Họ chia ra thành nhiều nhánh, dưới nhiều tên khác
nhau và cũng hoạt động trong những khu vực hay hình thái khác nhau. Nhánh mạnh
nhất có tên là Minh Giáo, tôn Trương Giác đời Ðông Hán làm giáo tổ, còn thờ Ma
Ni làm thần Quang Minh. Chính đây là tôn
giáo mà Kim Dung đã huyền thoại hóa trong bộ Ỷ Thiên Ðồ Long Ký thành Minh Giáo, một đoàn thể vừa mang màu sắc
bang hội, vừa có thêm một số nghi lễ thần bí, đứng đầu phe hắc đạo.
Giáo nghĩa của họ chủ yếu là phân biệt hai đằng thiện
ác, sáng tối, dùng thuyết tam tế phân biệt ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai
làm nền tảng, và tin tưởng rằng quang minh rốt ráo sẽ chiến thắng hôn ám. Tín
đồ Minh Giáo mặc đồ trắng, sống giản dị, cần kiệm, ăn chay, không uống rượu,
người chết thì để trần truồng đem bỏ ngoài sa mạc cho chim ăn, không thờ tổ
tiên, Thần, Phật mà chỉ lễ bái mặt trời, mặt trăng.
Tổ chức trong Minh Giáo này rất nghiêm mật, trưởng
lão của họ gọi là hành giả, giáo đồ chia thành thị giả, thính giả, cô bà, trai
tỷ… Họ truyền bá mạnh tại các vùng Hoài
Qua đời Ngũ Ðại, Tống, Nguyên họ khởi nghĩa nhiều
lần, đặc biệt là cuộc nổi dậy Mẫu Ất thời kỳ cuối của nhà Lương, hay Phương Lạp
đời Tống (1120-1122). Cuộc khởi nghĩa quan trọng nhất mà họ tham gia có lẽ là
cuộc nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào thế kỷ thứ XIV, lập nên triều đại nhà
Minh, mặc dầu nhiều học giả không cho rằng nhà Minh có liên quan đến Minh Giáo.
Hiện nay, đền
thờ duy nhất của người Ma Ni còn sót lại trên thế giới ở tại Quan Châu (Phúc
Kiến), vùng duyên hải Trung Hoa trong đó có khắc nổi tượng Ma Ni dưới danh hiệu
Quang Minh Phật (Buddha of Light). Có
lẽ vì tên Mani tương đồng với Thích Ca Mâu Ni nên nhiều người đã lầm lẫn giữa
hai tên này. Tuy nhiên hình tượng khác hẳn hình tượng của Phật Giáo. Trên đầu
có một vòng hào quang, với hai chùm tóc chảy từ đầu xuống vai. Hình tượng mặc
áo trắng và theo tự tích khắc ở đó thì ngôi đền này do một giáo đồ kiến lập năm
1340. Tài liệu ngày nay người ta kiếm được để nghiên cứu về Ma Ni Giáo được gọi
là Turfan (Turpan), là những kinh điển mà các khảo cổ gia người Ðức đào được ở
Ðôn Hoàng (Dunhuang) vào khoảng 1902-1914.
Trong số các tự tích tìm thấy có cả những đoạn mà từ lâu nay bị mất trong thánh
kinh của họ, cả những văn chương viết bằng tiếng Pahlavi, Saghdian, Thổ Phồn và
tiếng Hán. Một số tài liệu khác về Ma Ni Giáo thì kiếm thấy ở Ai Cập năm 1933
và trong những sách vở bài xích Ma Ni Giáo do người đạo Thiên Chúa, Muslim hay
Bái Hỏa Giáo viết.
Thi nhân Bạch Cư
Dị đã từng viết một bức thư thay mặt vua nhà Ðường trả lời cho vua nước Hồi khi
họ xin triều đình Trung Hoa bảo vệ những người theo Ma Ni Giáo. Julia Ching
nhận định là vấn đề của Ma Ni Giáo là họ vay mượn từ các tôn giáo khác khiến
cho đối với các dân tộc Cận Ðông thì họ giống như Ki-tô Giáo hay Do Thái Giáo,
trong khi đối với các dân tộc Viễn Ðông thì họ lại giống như Phật Giáo. Chính
Mani cũng coi Giê-su là đấng tiên tri (ngôn sứ) của người Do Thái, Zoroaster là
đấng tiên tri của người Ba Tư, còn Phật Thích Ca là đấng tiên tri của người Ấn
Ðộ. Và khi ông tổng hợp được nhiều tôn giáo trong đạo của mình, ông ta tin rằng
“Giáo Hội của Ta ưu việt hơn các giáo hội đã có từ trước, và những tôn giáo
trước đây chỉ phổ biến tại một số quốc gia hay thành thị, còn Giáo Hội của Ta
sẽ lan truyền đến khắp mọi thành phố, và lời giao rảng của Ta sẽ đến khắp thế
gian.” (Julia Ching, Chinese Religions, tr. 174)
Một trong những
đặc tính của các tôn giáo ở Trung Hoa là những tổ chức này không hoàn toàn mang
tính chất tôn giáo mà luôn luôn pha thêm một số hình thức thế tục trên phương
diện xã hội hay chính trị. Tôn giáo cũng không có một vị trí quyền lực cao cấp
như tại Tây phương. Tuy có một số thời kỳ, nước Tàu có những quốc sư nhưng
những vị cao tăng đó không thể nào sánh được với quyền lực của những giáo hoàng
hay giáo chủ ở Âu Châu hay Trung Ðông.
Minh Giáo hình
thành vào đời Ðường là giai đoạn văn hóa tương đối khai phóng nên được chấp
nhận dễ dàng cũng như Phật Giáo. Nưng đến triều Minh, Thanh, khi Nho Giáo đã có
một vị trí độc tôn, các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài không còn được coi
trọng nữa. Chính vì thế, cũng như nhiều tôn giáo khác, Minh Giáo dần dần tàn
lụi.
Trên thực tế, Minh Giáo là một tôn giáo rất khắt khe.
Những tu sĩ của họ phải sống một đời sống khắc kỷ và giữ mình nghiêm nhặt. Theo
kinh điển của Minh Giáo, những người được Thượng Đế lựa chọn (Primates Manichaeorum) có một đời sống
khổ hạnh và phải luôn luôn di hành, không được ở yên một chỗ. Họ không được
quyền có tài sản, không ăn thịt, uống rượu, và trấn áp mọi dục tình. Họ cũng
không có quyền có nghề nghiệp, buôn bán, hay học những ma thuật hoặc nghiên cứu
tôn giáo ngoài chính tôn giáo của họ.
Nhiệm vụ chính yếu của họ là kìm giữ và đóng kín ba
cửa ải – miệng, tay, và ngực (oris,
manuum, sinus). Ðể giữ miệng, họ không được nói năng độc địa, không ăn uống
các chất độc hại. Thịt gia súc sẽ khởi động ma vương trong cơ thể con người, vì
thế họ chỉ được ăn rau cỏ và trái cây. Ðể giữ gìn cho bàn tay khỏi ô uế, họ
không được sát sinh, bẻ cây hái trái. Ðể giữ gìn cho trái tim được trong sáng,
họ không được nghĩ ngợi bậy bạ chẳng hạn như nghĩ những điều không trong sạch
hay trái với giáo lý của Ma Ni Giáo. Họ cũng không được lập gia đình vì coi sự
truyền chủng là một hành động kéo dài sự tăm tối, và loài người sinh sản chính
là vì bị Thượng Đế trừng phạt. Chính vì khó khăn như thế nên số người được ở
trong hàng giáo phẩm rất hiếm hoi.
NGUYỄN DUY CHÍNH
* Xem tiếp Minh Giáo Theo Kim
Dung, cùng người viết, trong Đạo Uyển Xuân 2021 (tập 37).