Bản thảo giáo khoa Cao Đài
Trong đạo Cao Đài hiện nay
đang có nhu cầu biên soạn các bài giảng về kinh cúng, giáo lý căn bản, v.v… ngõ
hầu triển khai trong các khóa học được tổ chức tại các Hội Thánh, thánh thất,
thánh tịnh, học viện, v.v… Mục BẢN THẢO GIÁO KHOA CAO ĐÀI mở ra nhằm dần dần
đáp ứng chút ít tài liệu tham khảo, ước mong góp phần bé mọn để quý đạo hữu
giảng viên có thể nhẹ bớt phần nào “gánh nặng” trong muôn một.
Việc đăng bài nơi đây sẽ tùy
duyên, nghĩa là trong khả năng hạn hẹp, hễ có được bài giảng nào thì phổ biến
bài đó. Biển học vô bờ. Chúng tôi kính mong và tin tưởng quý đạo hữu luôn hoan
hỷ lượng thứ mọi nhầm lẫn, thiếu sót nếu chúng tôi vướng phải, và sẽ vui lòng
chỉ giáo để chúng tôi kịp thời sửa chữa chỗ sai lầm, bổ túc chỗ thiếu sót. Gọi
mục này là “Bản thảo giáo khoa” cũng vì lẽ ấy. (H.Kh.)
KINH THUYẾT PHÁP
(Giọng nam xuân)
I. KINH VĂN
Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi
Cậy thánh tâm sửa đổi tánh phàm
Dìu đời với sức không kham
4. Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.
Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp
Trợ giúp con đặng lập nên công
Muốn cho thiên hạ đại đồng
8. Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.
Nguyện lời nói biến hình bác ái
Nguyện chí thành sửa máy tà gian
Nguyện cho khí tịnh thần an
12. Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.
Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc
Giúp thông minh lảu thuộc văn từ
Cảm quan(g) diêu động tâm tu
16. Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.
(Niệm một lần)
II. XUẤT XỨ
Bài kinh này do tiền khai Phạm Hộ Pháp (1890-1959) đặt, sau đó có
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nhuận sắc. (Tòa Thánh Tây Ninh, Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo. Bản
in 1992, tr. 103, chú thích 1.)
III. CHÚ GIẢI
thuyết 說: Nói ra để giảng giải, giải thích (lecturing).
pháp 法: Giáo lý (dharma, teachings).
thuyết pháp 說法: Nói để giảng giải giáo lý (preaching), đồng nghĩa với thuyết đạo.
Kinh Thuyết Pháp được
đọc trước khi bắt đầu một buổi giảng giáo lý. Vị thuyết pháp, đồng nhi và thính giả đứng
ngay ngắn, chắp tay đặt trước ngực và cùng đọc kinh.
Giọng nam xuân: Giọng đọc kinh theo làn điệu nhạc lễ truyền thống của dân
tộc, nhịp hơi nhanh, biểu thị nét vui tươi, lòng thơ thới. (Còn một giọng khác
là nam ai, nhịp chậm, biểu thị nét
buồn thảm, bi ai. Kinh đọc trong đám tang đều theo giọng nam ai.)
Câu 1-2: Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi / Cậy thánh tâm
sửa đổi tánh phàm.
trường 場: Nơi chốn, chỗ tụ họp (field, area).
phổ tế 普濟: Phổ là rộng khắp; tế là qua sông (đồng nghĩa với độ 渡). Tế độ 濟渡 là cứu vớt con người khỏi bể khổ, giống như đưa thuyền đến vớt kẻ chết đuối chở sang bờ bên kia. Phổ tế đồng nghĩa với phổ độ 普度 (cứu vớt rộng khắp).
cậy: Nhờ vào, nương dựa vào.
thánh tâm 聖心: Lòng thanh cao, lương thiện, chơn chánh. Trái với
thánh tâm là phàm tâm.
tánh phàm (phàm tánh 凡性): Tánh trần tục còn nhiều khuyết điểm.
Câu 3-4: Dìu đời với sức không kham / Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ
quan.
quyền 權:
a. Quyền hạn, quyền hành (right). Thí dụ:
Giáo Tông có quyền cầu rỗi (xin tha tội) cho chúng sanh, còn việc xá tội cho
chúng sanh là quyền của Thầy (Đức Chí Tôn).
b. Hành vi quyền biến 權變 tức là cần thiết tạm phải làm do tình thế đòi hỏi (expedient). Thí dụ: Cậu em chồng không được phép ôm chị dâu, nhưng thấy chị dâu (không biết
bơi) té xuống sông thì phải mau mau vớt chị, ẵm lên bờ kẻo chị chết
đuối. Như vậy là quyền biến.
quyền thuyết pháp: Có thể hiểu theo hai nghĩa.
a. Việc giảng giáo lý không phải ai cũng tùy tiện làm được. Người giảng giáo lý phải đủ năng lực, đức hạnh, có quá trình tu
học, và phải được Ơn Trên (hay Hội Thánh) cho phép
đi giảng.
b. Trong việc tu học, hành đạo độ đời, thuyết pháp chỉ là phương tiện tạm mượn.
cơ
quan 機關:
a. Cái máy (machine).
b. Phương pháp hay phương tiện hoạt động để đạt được mục đích đã định (mechanism).
Câu 5-6: Đại Từ Phụ hồng ân rưới khắp / Trợ giúp con đặng lập nên công.
Đại Từ Phụ 大慈父: Người cha rất hiền, tức là Đức Chí Tôn, Đức Cao Đài, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
hồng ân 洪恩: Ơn to tát (của Đức Chí Tôn ban cho).
rưới khắp: Ơn Trời như mưa sa, chan hòa, thấm đều khắp nơi.
lập nên công: Lập nên công quả pháp thí (giảng giáo lý).
Câu 7-8: Muốn cho thiên hạ đại đồng / Lấy câu cứu khổ dụ
lòng thương sanh.
thiên hạ 天下: Dưới trời, chỉ thế gian (the whole world).
đại đồng 大同: Ðồng là hòa 和. Đại đồng là cả thế gian cùng sống vui, hòa hiệp với nhau, không tranh
cạnh (great harmony). Đại đồng chi
thế 大同之世 là cõi đời đại đồng (the world of great harmony).
dụ 誘: Khuyến dụ 勸誘, dẫn dụ 引誘; lấy đạo nghĩa khuyên bảo người ta làm thiện. thiện dụ 善誘: Khéo léo dẫn dụ, khuyên bảo người khác.
thương sanh (sinh) 蒼生: Dân chúng, chúng sanh (common
people).
Câu 9-10: Nguyện lời nói biến hình bác ái / Nguyện chí
thành sửa máy tà gian.
nguyện 愿(願): Cầu nguyện 求願, mong muốn, ước muốn.
biến hình 變形: Biến đổi cái trừu tượng trở thành hình tượng cụ thể.
bác ái 博爱: Lòng thương yêu khắp cả mọi người mọi vật.
chí thành 至誠: Thành thật tột cùng, hết sức thành thật.
tà gian 邪姦: Dối trá, không ngay thẳng.
máy tà gian: Ám chỉ cơ tâm 機心 (lòng dạ trí trá) hay âm mưu những việc gian dối hại người.
Câu 11-12: Nguyện cho khí tịnh thần an / Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn
tu.
khí tịnh 氣静: Hơi thở được điều hòa. (Người thuyết pháp hay diễn thuyết không nên để cho mình bị hồi hộp, hơi thở gấp gáp làm mất bình tĩnh.) Chữ 静 đọc là tĩnh (tranquil: an tĩnh). Phần đông người ta lẫn chữ tĩnh 静 với chữ tịnh 凈 (clean: thanh tịnh). Do đó người Hoa ngày nay cũng chấp nhận hai chữ này dùng thông với nhau (interchangeable).
thần an 神安: Tinh thần được ổn định, không bối rối.
Lưu ý: Khí tịnh thần an không chỉ cần cho người giảng mà còn cần cho người nghe. Nhờ khí tịnh thần an, người nghe có thể lắng lòng, tập trung theo dõi và
lãnh hội được bài giảng.
thính giả 聽者: Người nghe thuyết pháp (audience).
đàng chơn tu: Đường lối tu hành chơn thật, đúng theo chánh
pháp, không lừa dối người đời.
Câu 13-14: Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc / Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.
đương chầu Bạch Ngọc (Kinh) 當朝白玉(京): Ðang chầu Ðức Chí Tôn ở Bạch Ngọc Kinh.
lảu thuộc: Thuộc làu làu, có thể nói ra trôi chảy.
văn từ 文詞: Văn chương, chữ nghĩa, thánh ngôn, thánh giáo, giáo lý...
Câu 15-16: Cảm quan(g) diêu động tâm tu / Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.
a. Các bản kinh do Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh ấn hành xưa nay đều in là cảm quang. Có vị Hiền Tài giảng
cảm quang 感光 là “sự rung cảm trong lòng làm
phát sinh một làn ánh sáng, giống như một làn sóng điện, gọi là làn điển quang”. Tôi không
ưng cách giảng này.
b. Tôi nghĩ có lẽ nên hiểu là cảm
quan 感官 (sense
organs), là các cơ quan nhận thức của con người (ngũ quan 五官: the five senses) như mắt, tai, mũi, lưỡi, da (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác: sight, hearing, smell, taste, touch).
Trong bài kinh này, cảm quan chủ yếu nói tới hai cơ quan là mắt và tai (thị giác và thính
giác).
diêu động (dao động 搖動): Lay động (shaking).
tâm tu: Cái tâm thức tỉnh biết tìm đường tu hành.
cơ 機: Cơ hội (opportunity).
khai cơ giải thoát: Mở ra cơ hội thoát khỏi luân hồi (nhờ thức tỉnh và
lo tu hành chơn chánh).
Phong Đô 豐都: Địa ngục 地獄, âm phủ 陰司, âm ty 陰司 (hell).
IV. TÓM TẮT ĐẠI Ý TOÀN BÀI KINH THUYẾT
PHÁP
Công cuộc phổ tế hay phổ độ chúng sanh có nhiều nỗi khó khăn. Con
xin nhờ tâm lành trong sạch để sửa đổi tánh tình trần tục.
Biết rằng nếu chỉ cậy vào sức người để dẫn dắt người đời thì không
làm được, con xin quyền biến mượn phương tiện thuyết giảng giáo lý để cảm hóa
nhân sanh.
Đức Ðại Từ Phụ ban bố ơn to tát khắp hết chúng sanh, xin hãy giúp
con thuyết pháp thành công.
Muốn cho nhơn loại đại đồng thì lấy đề tài cứu khổ thuyết giảng để
khuyến dụ dân chúng có lòng lành thương xót đồng loại.
Xin cầu nguyện cho lời giảng đạo có thể cảm hóa người đời để họ có
hành vi bác ái cụ thể. Con cầu nguyện đem hết lòng thành thật để sửa đổi những
lòng tà gian trá.
Xin cầu nguyện cho cả người giảng và người nghe hơi thở được đều
hòa, tinh thần ổn định (nhờ thế bài giảng được trình bày tốt đẹp và người nghe
lãnh hội trọn vẹn). Con nguyện xin người nghe thuyết pháp sẽ hiểu rõ con đường
tu hành chơn thật.
Con cầu nguyện với các Ðấng thiêng liêng đang chầu Ðức Chí Tôn ở Bạch
Ngọc Kinh hãy giúp cho con được sáng suốt để thuộc làu văn từ (và trình bày bài
giảng trôi chảy).
Xin cầu nguyện cho thính giả do tai nghe và mắt thấy mà xúc động
trong lòng, khiến họ phát tâm tu hành, nhờ đó họ mở ra cơ hội cho bản thân
thoát khỏi luân hồi, không phải sa vào địa ngục.
V. CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG CỦA BÀI KINH THUYẾT
PHÁP
Bài kinh này xác định rằng thuyết pháp là một phương tiện quyền biến trong việc độ đời. Sức cảm hóa của bài giảng không chỉ ở phần trí năng (cái
tài) mà còn tùy theo phần công phu tu dưỡng (tâm hạnh, đạo đức) của người thuyết pháp.
Bài kinh cũng hàm ngụ lẽ Thiên nhân
hiệp nhất 天人合一 (Trời hay và con người hợp làm một). Thật vậy, ngoài sự cố gắng và tài năng của người giảng còn có sự ban ơn hộ trì của các Đấng thiêng liêng, chư thiên hộ pháp.
Hai câu kết bài kinh nên là phương châm cho tất cả những người nhận trọng trách giảng đạo. Tài hùng biện, kiến thức phong phú là yếu tố cần thiết nhưng chưa đủ; phải cần có thêm lòng
chí thành và tâm đức của người giảng, được bộc lộ ra qua dáng điệu hay cử chỉ tao nhã, gương mặt hiền hòa, giọng nói truyền cảm tự nhiên chứ không phải do khéo đóng kịch (giả tạo). Tất cả những gì mà thính giả tận mắt nhìn, tận tai nghe sẽ làm cho họ xúc động, đồng cảm sâu sắc với người giảng, và liền đó họ có thể phát tâm lành hướng thiện, muốn bước lẹ vào đường tu hành (Cảm quan diêu
động tâm tu). Một khi họ biết tu tức là biết tìm lối thoát ra khỏi cửa địa ngục (Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô). Mục đích giảng đạo, thuyết pháp là thế. Sự thành công của bài giảng là thế.
Tóm lại, muốn thuyết pháp có kết quả như hai câu kết bài kinh nêu ra thì người giảng phải xứng đáng để được ơn soi dẫn, phù hộ của
Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng.
Muốn được ơn, ngoài sự thường xuyên học hỏi giáo lý, rèn luyện nghệ thuật thuyết trình, người giảng đạo buộc phải có tâm chơn chánh, ý thành thật, không được nuôi lòng tà vạy (Nguyện chí thành
sửa máy tà
gian). Nghĩa là bản thân người giảng đạo phải xứng đáng để được Trời Phật ban ơn hộ trì và nhờ vậy lời thuyết pháp có sức mầu nhiệm cảm hóa chúng nhân.
Hiểu như vậy, thì rõ ra quyền thuyết pháp không chỉ là cái phương tiện quyền biến (expedient means) mà quả thật còn là cái quyền được giảng đạo (the right to give sermons).
Quyền ấy chỉ nên trao cho người xứng đáng (vì có đủ
tâm hạnh đức tài), bởi lẽ:
- Thiếu tài thì giảng
bài không ai hiểu, hoặc giảng sai, hoặc không lôi cuốn khiến người nghe mau chán, buồn ngủ.
- Thiếu tâm thì không chịu
rèn luyện nghệ thuật nói trước công
chúng, không tận tụy nghiên cứu bài giảng cho tới nơi tới chốn, không thèm soạn bài kỹ lưỡng, không nhắm vào ích lợi thiết thực của người nghe, không màng
cân nhắc xem bài giảng có phù hợp với phần lớn người nghe hay không.
- Thiếu hạnh, thiếu đức thì mượn buổi giảng để cốt khoe mẽ bản thân, để chỉ trích cá
nhân ai đó, hoặc để tự ca tụng tôn giáo của mình mà chê bai, chỉ trích tôn giáo
khác.
Ngoài ra, do thiếu hạnh, thiếu đức
người thuyết pháp “ăn khách” dễ sinh lòng tự phụ, kiêu căng, tự cho phép mình
đáng “làm thầy” đồng đạo, đạo hữu. Trái lại, người hạnh đức sẽ luôn tỉnh táo
trước những tràng pháo tay giòn giã, những lời khen có cánh, và luôn luôn tự nhắc
nhở: Mình chẳng làm được gì đâu nếu không
có Thầy có Mẹ, không có Đức Lý Giáo Tông soi dẫn. Mình chỉ là phương tiện, là
công cụ để Thầy Mẹ và các Đấng tạm mượn dùng đó thôi.
HUỆ KHẢI soạn