Trong
một đàn ngày 28-4 Kỷ Hợi (04-6-1959), chưa rõ nơi lập đàn, Đức Chí Tôn dạy:
NGỌC trong đá trắng, thánh trong người
HOÀNG lệnh Thầy truyền chớ dể ngươi
THƯỢNG đạt phải lo ra gánh đạo
ĐẾ tâm chuyển pháp dựng xây đời.
(…)
Thầy cho hay sẽ lập pháp y theo bài xưng tụng Ngọc Hoàng nghĩa là
từ chữ “Đại La” đến chữ “Hựu tội Đại Thiên Tôn”.([2])
Thế rồi, để con cái của Thầy hiểu được ý
nghĩa sâu kín của bài kinh cúng tứ thời nhan đề Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu cáo,([3])
tại Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam), một hôm Thầy giáng cơ dạy như sau:
THƯỢNG
ĐẾ TRONG TẤT CẢ
THI
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáng đàn trung
Phước
huệ ban cho các trẻ cùng
PHÁP
ĐẠO BỬU CHƯƠNG ngày giáng lập
Mừng
chung nhân loại gội ân hồng.
Thầy là Thượng Đế vô sinh. Thầy vô sinh
nên không hình không danh. Thượng Đế là danh tạm gọi cho Thầy là đấng chủ tể
càn khôn. Cho đến danh Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng ([4]) cũng
là danh tạm gọi mà thôi.
Thầy kỳ ba đại xá lập Tam Kỳ Phổ Độ gọi
là danh không nhất định. Danh không nhất định là “phi thường danh”. Kể ra
thường danh của Thầy là Thường Đạo.([5])
Thường Đạo là Thầy thì Thầy cũng có danh.
Đã có danh Thường Đạo thì còn có chỗ kêu tên nầy nọ. Cho nên Thường Đạo cũng
chẳng phải danh thường danh.
Thầy đến cùng các con hôm nay đây viết ra
chữ. Chữ ấy đọc nên lời đều là cái gì không phải Thầy. Thầy chẳng nói không
làm. Chỉ có người Thánh mới nghe được tiếng Thầy trong vạn hữu, mới thấy Thầy
khắp vạn phương. Các con có lòng thành kỉnh thì sẽ biết Thầy là chi.
Trong trời đất bao la lồng lộng mông mênh
không bến chẳng bờ. Nhưng như chiếc
lưới vĩ đại ([6]) có
đường chỉ dọc ngang dàn thành mặt sưa ([7]) có
mắt. Mắt lưới nầy vô hình không ai thấy được. Trời là chủ trời đất cầm lưới ấy
tung ra, các con ở trong đó. Không một con nào lọt ra ngoài được. Cho nên Thầy
có danh là Đại La Thiên Đế. Đế là vua trọn lành. Thầy làm chủ tể như một
vị vua trị quốc an dân. Thầy làm vua lớn hơn vua dưới thế nầy nên gọi là Thiên
Đế. Thiên chỉ bầu trời (Đại La). Đế chỉ ngôi chủ tể ngự trị. Đế còn có nghĩa
bản thể vô sinh bất nhị,([8]) diệu
huyền vô đối,([9]) thường
tại bất biến. Tuy không phải như vua ngồi trên bệ ngọc ngai vàng cầm quyền sinh
sát muôn dân, nhưng Thầy thống ngự vạn
vật không vật nào chẳng ở trong Thầy, không vật nào Thầy chẳng ở trong. Chi
chi cũng có Thầy. Mỗi con sinh ra hay về Thầy đều do con đường âm dương biến
hóa. Thầy là vậy nên gọi Đế. Gọi Đế hay gọi Thái Cực Thánh Hoàng cũng là danh bày tỏ Thầy là chi. Có điều danh
chi cũng không đủ tượng trưng được ngôi Thầy.
Thái Cực là danh lớn vô cùng lớn, hay nói
sự hòa hợp âm dương trong Thầy. Thầy không bao giờ chẳng lấy Hòa làm Đạo. Thái
Hòa là Thầy. Đạo còn biến hóa khiến cho muôn loài trở về đường chính nhằm bảo
hợp Thái Hòa tức là trở lại cùng Thầy.
Thầy là tất cả. Tất cả là Thầy. Chỗ Thầy và tất cả giao hòa không lấy chi lường
được, nên gọi Thầy là Thái Cực. Chúng sanh đều có Thái Cực. Thầy là Thánh Hoàng
của chúng sinh. Thái Cực Thầy và Thái Cực chúng sinh đồng ở trong quyền phép
Thánh Hoàng. Đã là Thánh Hoàng, Thầy không như phàm tục.
Các con ôi, hôm nay các con được ơn Thầy
chỉ dạy mấy lời đạo pháp thật là dịp vô cùng quý báu!
Thầy cũng muốn nói ngôi Thầy ngự chẳng
khác cung khuyết vàng ròng kinh thành ngọc trắng,([10]) nghĩa
là chỗ cao sang tột bậc. Các con có biết chỗ ấy ở đâu chăng? Hay là nghe vậy
biết vậy? Thầy nói chỗ ấy không như các con tưởng tượng. Thầy vô hình thì ngôi
Thầy làm gì hữu tướng. Vàng ngọc là thứ ở dưới đất các con coi quý, chứ Thầy
không lấy chi làm quý. Chính nơi Thầy ngự không ngoài vạn vật. Ở đâu cũng có
Thầy.([11]) Thầy
cỡi sáu rồng bay khắp muôn phương, không ai lường được. Rồng bay lên trời cao
vòi vọi, Thầy ngự ở đó nguy nga. Đó là ngôi Cửu Ngũ. Thầy có quyền năng Tạo
Hóa. Rồng nằm dưới vực sâu cũng có Thầy ngự đến. Rồng hiện trên mặt đất hay bất
cứ ở đâu thời nào cũng có Thầy cả. Thời
thừa lục long du hành bất tức thì Thầy đâu ngồi một chỗ như ông vua phàm
tục.
Lục long là sáu hào dương quẻ Càn, Thánh
Nhân mượn chỉ sự biến hóa ẩn hiện phi thường của Đạo Trời, người đời phải theo
đó mà tu học cho nên Thánh, hay cho nên con Thầy.([12])
Các con ôi! Thầy khuyên các con nên biết
Thầy không phải thực phải hư. Thực thì có thể cầm nắm rờ mó được, còn hư thì
trái lại. Thầy có khi hiện ra thực tướng Như Lai, lại có khi như hư không,
không có gì cả. Hễ lấy mắt mà xem thì Thầy hư, hễ lấy tay sờ thấy Thầy không
thực. Tuy không hiện hình nhưng Thầy dịch
sử quần linh. Mặt trời, mặt trăng và vô lượng tinh cầu vận hành trong hư
không, không bao giờ sái luật trái đường. Con kiến bò, con người sống, không
con nào ra ngoài luật âm dương tạo hóa. Ai vót gai nhọn, ai vo quả tròn, ai
dựng nên trời đất? Thầy là chi không ai thấy, dường như hư nhưng không hư, còn
nói thực thì Thầy là chi không phải thực mà nói dường như thực. Thật là mầu
nhiệm.
Thầy có nói gì đâu.([13]) Thánh
Nhân cảm thấu Thầy thế nào đó rồi đặt kinh xưng tụng Thầy. Kinh
sách nói đến Thầy rất nhiều, nhưng chỉ bày tỏ Thầy phần nào theo sở đắc mà
thôi. Khoa học ngày nay tiến bộ, nhưng cũng chưa tìm gặp Thầy được.
Xưa nay Thầy đã hóa độ vô số chúng sinh
mà nào có ai nghe Thầy nói gì đâu. Phật hay Chúa nói ra lời Thầy cũng chưa đủ
gọi là Thầy nói hết. Thế mà chúng sinh đã ngộ. Phải chăng Thầy không nói mà nói
thầm kín lặng lẽ trong lòng chúng sinh. Các nhà khoa học bây giờ lên tận cung
trăng đều phải nhận Thầy mầu nhiệm. Đó cũng là Thầy bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Thầy là
các con, các con là Thầy. Sở dĩ Thầy và các con như thế là vì Đạo, một cái gì ở
Thầy, ở các con làm như nhịp cầu giao thông đây đó lại qua. Đạo ấy vô hình, có
khi hiện hình người nam hay nữ. Nam nữ là âm dương. Âm dương hiệp lại thành
trời đất. Trời đất cũng là âm dương. Trời là dương. Đất là âm. Trời có nước
thuộc âm. Đất có lửa thuộc dương.([14])
Người nào cũng có âm dương giao hòa. Âm dương là hai khí phân làm bốn tượng.
Tượng là khí thành ra Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm, Thiếu Dương là bốn tượng.
Nói ra đã thấy âm dương không tuyệt đối âm, tuyệt đối dương. Thầy đây có khi
gọi Mẹ. Mẹ cũng có khi xưng Thầy. Càn và Khôn tuy hai quẻ khác nhau, nhưng
dương cực âm sinh, cơ tiêu trưởng cho thấy âm thịnh dương suy, hay trái lại,
chứ thật ra không ngoài Thái Cực nhất nguyên. Thầy là Nhất Nguyên.([15])
Thầy biến hóa thành vạn hữu, tướng dụng bất đồng.Tuy chia ra vạn hữu sai biệt
nhưng gốc một, Thầy vần xây ([16])
không giới hạn biên cương. Cỏ cây cũng có Thầy, có âm dương. Trên Thầy có đủ
Phật Tiên Thánh Thần cả nam lẫn nữ. Các đấng ấy cũng là âm dương biến hóa. Hoặc
nữ hay nam cũng trong Thầy mà ra. Khi là Phật hay Tiên tức là khi Thầy ứng hóa.
Cơ mầu nhiệm nầy chỉ có Thầy mới biết Thầy. Các con chưa đắc đạo, Thầy cũng khó
nói ra. Hằng ngày các con đọc tụng khí
phân Tứ Tượng oát triền vô biên mà làm sao biết được thế nào. Đây Thầy cũng
cho biết chút ít. Phật và Chúa mỗi vị một phương. Đạo Phật, đạo Chúa truyền lại
môn đồ nam nữ, rồi từ đó truyền ra khắp. Bây giờ Thầy đến viết qua tay đồng tử rồi từ đó Hội Thánh nam và nữ truyền ra cho các
con nam nữ. Đạo Pháp trường lưu
([17])
không biết ngày nào ngưng đọng.
Các con
ơi! Thầy nhìn thấy các con mà lòng Thầy cảm động. Các con phải theo Thầy như
người quân tử tự cường bất tức.([18])
Thầy là
mặt trời ngày ngày chói rọi mười phương. Người thấy mọc ở phương Đông lặn về
phương Tây, bảo là Thầy vận hành mãi mãi không bao giờ mỏi mệt. Thiên hành kiện
là nghĩa ấy. Càn kiện cao minh cũng
là nghĩa ấy.
Thầy làm
con mắt đoái xem vạn loại thiện ác. Thầy cao minh không có vật nào ngoài tầm
mắt Thầy. Thầy thấy thiện thấy ác các con. Song Thầy không vì thiện ác mà bỏ
các con. Mặt trời soi cho kẻ ác người thiện như thế nào, thì Thầy cũng vậy. Mắt
Thầy cao minh, sự nhìn thấy của Thầy không như thiên hạ. Lòng các con thế nào
Thầy đều thấy cả. Thầy có chánh kiến. Các con học Thầy để thấy Thầy ở mỗi con.
Cái thiện kia ác nọ không phải của Thầy, của các con, mà của tà kiến. Khi nào
các con có Thầy hợp một sự thấy thì không còn phân nhơn ngã thị phi thiện ác.
Bây giờ là huyền phạm quảng đại, cõi
mầu nhiệm rộng lớn. Bấy giờ Thầy và các con không lầm lẫn mảy may họa phước.
Phước là
gì, họa thế nào, đều lập phân. Phước ở Trời hay phước thế gian, họa xác thịt
hay họa linh hồn, chi chi Thầy và các con rõ cả.
Phước
họa đôi đường tương đối. Các con có khi lầm cho phước là họa, họa là phước. Một
nhà tu chơn chính nhìn đời thấy khác người tục. Cái chết của Chúa Giêsu là
phước hay họa? Phật Thích Ca bỏ nhà vàng ra đi tìm đạo giải thoát là họa hay
phước? Hoàng Ngọc Trác tuẫn đạo,([19])
phước họa thế nào? Bây giờ Thầy nói cho các con rõ dưới mắt Thầy họa hay phước
là điều các con chưa thấy rõ.
Hôm nay
các con ngồi tu theo đạo pháp tâm truyền như Ngô Đại Tiên ngày trước các con có
cho là phước không? Nếu là phước thì bao nhiêu người khác thế nào? Thầy nói
thật mọi sự làm theo ý Thầy là phước. Dù cho các con tu mà ích kỷ không nhận rõ
Đạo là chi thì suốt đời cũng vô ích. Còn như không tu mà hành thì Thầy không
muốn. Hành đạo bằng tâm và thân tu mới có phước. Phật nói dù cho lấy thất bảo
cả tam thiên đại thiên thế giới bố thí cũng không bằng công đức thọ trì tứ cú
kệ.([20])
Tứ cú kệ thế nào, các con có biết không? Dù nói ra kệ bốn câu bằng lời hay viết
thành vần không đủ nghĩa lý. Công phu từ sơ thiền đến tứ thiền một niệm vô sanh
thì công đức vô lượng. Các con gắng tu cho được vậy thì có thể cùng Thầy nhứt toán họa phước lập phân.
Thầy nói
cho các con biết Thầy không phải là trời [chư thiên, devas] ([21]) mà là đấng cầm quyền cả ba mươi sáu cõi
trời và ba ngàn thế giới.([22])
Không những bảy mươi hai địa cầu mà cho đến tứ đại bộ châu cũng do Thầy nắm
giữ.([23])
Mỗi nơi thế nào các con đâu rõ. Thầy ở khắp mọi nơi. Cả càn khôn không ngoài
bàn tay mầu nhiệm của Thầy cầm nắm. Hễ đã có quyền năng như thế thì không một vật
nào, một người nào còn mất, sống chết không do Thầy. Khoa học càng tiến bộ càng
khám phá cơ tạo hóa của Thầy. Các con đừng tưởng thành bại do người. “Hành hoặc sử chi, chỉ hoặc nặc [ni] chi,
hành chỉ phi nhơn sở năng dã.” ([24]) Mạnh Tử đã biết được Thầy rồi.
Thầy là
Đại Từ Phụ, thì dù tiên thiên hay hậu thiên Thầy đều dưỡng dục.([25])
Các đấng Thần Linh, Thiên Sứ hay ngạ quỷ súc sanh, hoặc Thầy chưa nói đã biết,
hoặc Thầy dạy rồi mới hay, trí tuệ hay ngu mê, chi chi cũng có Thầy thương yêu
ban cho sự sống. Thầy là thế nên các con xưa nay ngưỡng vọng.([26])
Thầy từ đó tế độ các con không phân thiện ác. Tất cả dòng đạo pháp xưa nay các
con và cả nhân loại tôn kính tín ngưỡng đều bởi Thầy mà ra. Thầy là lẽ thật, là
dòng đạo pháp tổng hợp cổ kim.([27])
Các con tin Thầy được cứu. Không phải nội các con là bề tôi trung tín của Thầy.
Thầy làm chủ cả mười phương Thánh Thần Tiên Phật,([28])
làm vua cả nhật, nguyệt, tinh thần thượng hạ.([29])
Các con coi đó biết Thầy là chi. Nói vua, nói chủ là nói quyền năng mầu nhiệm
dịch sử hóa độ đó con.([30])
Phật không hơn Thầy, Thầy là Phật.([31])
Hai mà một, hiển vi vô gián,([32])
thể dụng nhất nguyên.([33])
Nói chủ là nói cơ mầu nhiệm, dù cho Phật cũng không qua.
Nói là
vậy cũng chưa chí Đạo.([34])
Đạo mà nói ra lời, Thầy mà còn kêu chủ thì sao gọi là trạm tịch chơn đạo. Đại Đạo trạm nhiên thường tịch, cũng như nói “Thượng thiên chi tái, vô thanh vô xú.” ([35]) Đạo ấy vô vi bất ngôn, khôi mịch tôn nghiêm, các con xem không thấy, lóng không nghe,([36])
lặng lẽ im lìm như tro lạnh không hơi chẳng khói. Sở dĩ tôn nghiêm vì Đạo ấy
biến hóa vô cùng, linh oai mạc trắc.
Tất cả kinh báu có công năng giác thế, hay bao nhiêu giáo pháp thần diệu thường
lợi ích chúng sinh đều bởi Đạo. Các con không lấy khoa học trắc nghiệm được
đâu. Khi là Phật Ấn Độ, khi là Chúa Do Thái, khi là rồng thiêng Lão Tử, khi là
Khổng Tử, người bốn phương. Đến bây giờ lại là Thầy vô hình giáo đạo Nam
Phương. Chính các con cũng không biết Thầy biến hóa làm sao. Các con chấp rằng
nhánh đạo này, nhánh đạo kia hay người này, người kia mới có Thầy ngự đến.
Không ngờ Thầy trong tất cả, tất cả là Thầy. Các chi thể trong người con chỗ nào
mà chẳng phải con. Dù cho trùng độc ngoại nhập, khi đã ở trong con rồi thì sự
sống của con là của nó. Thầy nói thật dù cho hổ lang cấu xé các con cũng không
ngoài ý Thầy cho phép. Đó cũng là phép dĩ độc trị độc. Sự biến hóa vô cùng ấy,
các con muốn rõ không chi hơn công phu học Dịch tu tâm. Các con muốn cùng Thầy “Đại minh chung thỉ, lục vị thời thành, thời thừa lục long dĩ ngự thiên”,([37]) phải tu phải học. Không tu không học
làm sao biết “Càn đạo biến hóa, các chính
tính mệnh, bảo hợp thái hòa, nãi lợi trinh”.([38]) Dịch Kinh là bửu kinh, là thần giáo.([39])
Thầy ngày nay lập pháp giáo đạo trên nền tảng Dịch lý đó con. Thế là các con đừng tưởng Đạo Thầy theo con
thấy nhiêu đó.
Thầy
thương yêu các con, song Thầy cũng có khi răn cấm các con điều trái đạo. Các con
đọc Kinh Thánh Cựu Ước để biết Thầy khi lập Mười Điều Răn với sự thị hiện oai
nghiêm dường nào. Các con đọc Kinh
Thánh Tân Ước để thấy Thầy từ bi vô lượng. Thầy đem mình chuộc tội các con mà
còn xin cho các con nghịch Thầy được tha.([40])
Như thế oai lớn mà từ cũng lớn.([41])
Thầy đúng là ngôi Vô Cực không ngôi nào trên Thầy.([42])
Thầy là đại thánh đã từng đại nguyện cứu độ các con. Các con đọc
lời Thầy đã dạy về lời đoan thệ cũng đủ biết Thầy thương các con dường nào.([43])
Thầy dựng nên vạn hữu, không con nào chẳng thương. Bao nhiêu đau khổ của con
Thầy đều cứu độ. Các con thử làm nên một con kiến Thầy xem. Có ai tự ý sinh con
theo ý mình muốn không? Thầy đây dựng nên Ađam Evà và tất cả, Thầy ban cho sự
sống. Thế rồi người thủy tổ các con phạm tội cùng Thầy, lại bảo tại Thầy dựng
nên nầy nọ. Thầy từ bi đuổi ra khỏi địa đàng làm ăn.
Thầy như
thế nên có kẻ tôn Thầy là Huyền Khung
Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Tích Phước Hựu Tội Đại Thiên Tôn.([44])
PHỤ ĐÍNH: TỨ CÚ KỆ
1. Đức
Phật đã kết thúc Kinh Kim Cang bằng bốn câu kệ (tứ cú kệ) như sau:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
(Tất cả
pháp hữu vi
Như mộng, huyễn,
bọt, bóng
Như sương, như chớp
lóe
Hãy quán chiếu như
thế.)
2. Tứ cú kệ của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư (?-1018)
dạy môn đệ trước khi liễu đạo:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Hòa
thượng Thích Mật Thể (1913-1961) dịch:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
3. Theo Đoàn
Trung Còn (Tự Điển Phật Học, quyển 3),
tứ cú kệ là một bài kệ tóm lược
trong bốn câu chứa đựng hết ý nghĩa đạo lý. Chư Phật chư Tổ thường dùng tứ cú
kệ truyền cho đệ tử hoặc để khai ngộ hay để phó chúc. Người hữu duyên nghe một tứ
cú kệ, có thể giác ngộ mà tu cho tới thành đạo. Thí dụ, bốn câu kệ sau đây [trong Kinh Pháp Cú]
tóm lược hết giáo lý nhà Phật:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
[Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.]
4. Tứ cú kệ (…) chỉ các thi kệ Phật giáo
hình thành bằng bốn câu thơ, kệ tụng do sách Phật ghi chép, phần nhiều gồm bốn
câu, nhưng số chữ mỗi câu thì không nhất định. Tứ cú kệ thường hàm chứa yếu nghĩa kinh luận Phật giáo,
cho nên trong kinh thường nói dùng tứ cú kệ dạy người hoặc trì thọ tứ cú kệ,
đều được công đức rất lớn (…). Như vậy, tứ cú kệ không chỉ một bài kệ nào mà
chỉ chung kinh điển nào của Phật giáo cũng được, hay sâu hơn là hàm ý chỉ yếu
lý Phật pháp. (Theo nguyệt san Giác Ngộ
số 41, tháng 8-1999.)
([5]) Đạo Đức Kinh, chương 1: Đạo khả đạo phi Thường Đạo. Danh khả danh
phi thường danh. (Đạo mà nói ra được thì không phải là Đạo hằng thường bất
biến. Tên mà gọi tên được thì không phải là tên hằng thường bất biến.) Gia Fu
Feng và Jane English dịch ra tiếng Anh: The
Tao that can be told is not the eternal Tao; The name that can be named is not
the eternal name. (Tao Te Ching: Lao Tsu: A New Translation, 1972.)
([18]) Đại Tượng Truyện quẻ Càn có câu: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
(Trời vận hành không ngừng, người quân tử noi theo lẽ đó mà bản thân luôn luôn
mạnh mẽ không ngừng.) James Legge (1815-1897) dịch: Heaven, in its motion, (gives the idea of) strength. The superior man,
in accordance with this, nerves himself to ceaseless activity.
([21]) Deva (tiếng Pali) nghĩa là các vị ở cõi
trời (tương đương chữ gods trong
tiếng Anh). Người Hoa dịch là 天人 (thiên nhân: người cõi trời); chữ thiên ở đây không viết hoa (tương đương a god, gods trong tiếng Anh). Khi viết
hoa (Thiên) thì có nghĩa là ông Trời,
Thượng Đế (tương đương chữ God trong
tiếng Anh, và không bao giờ có mạo từ the
ở trước).
([37]) Đại minh chung thỉ, lục vị thời thành, thời
thừa lục long dĩ ngự thiên: Thánh
nhân [đại minh] thấu suốt đầu đuôi [chung
thủy] / Biết sáu giai đoạn [lục vị] cơ Trời biến thiên / Thế là cưỡi sáu rồng
thiêng / Vượt muôn biến hóa, băng miền trời mây. (Thoán Truyện quẻ Càn, Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch)
([43]) Đại Thừa Chơn Giáo:
(a) Nên hội Tam Giáo Công Đồng, Thầy lập
tờ đoan thệ, đem Đạo mầu phổ hóa độ tất cả đám quần sanh. / Nếu các con chẳng
chịu tu hành, không bỏ dữ làm lành, Đạo không thành Thầy nguyện không trở về
ngôi vị cũ. (b) Muôn kiếp các con
chịu lạc đường / Thấy vầy Thầy luống động lòng thương / Nên đoan thệ với hàng
Tiên Phật / Lập Đạo không thành chịu tội ương.