Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
Tuất
thời, 15-11 Giáp Dần (Thứ Bảy 28-12-1974)
Thông công: Bộ Phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Cao Đài Giáo Việt Nam .
Pháp Đàn: Chơn
Tâm.
Đồng
Tử: Thanh Thủy. Độc Giả: Bạch
Tuyết.
Điển
Ký: Ngọc Kiều, Hồng Cẩm, Kim Nhung, Lập Hạnh.
THI
Không
sắc ĐỐ ai biết đặng rành
Sắc có THÔNG rồi không mới sanh
Nếu đã QUAN tâm xin hỏi lại
Tâm huyền THÂN đắc đạo viên thành.
Chào
chư Thiên ân, chư huynh tỷ, đệ muội.
NGÂM
Có
Minh Đức Đạo Nhơn ([3]) lâm
đàn, chư liệt vị nghinh tiếp. Thôi, xin hẹn một dịp khác sẽ tái ngộ. Chào chư
Thiên ân, chư huynh tỷ, đệ muội.
(…)
MINH ĐỨC ĐẠO NHƠN
Chào
chư Thiên ân hướng đạo. Chào chư liệt vị nam nữ đàn tiền. Mời hiền huynh Huệ
Lương ([4]) an
tọa. Mời toàn thể chư liệt vị an tọa.
(…)
Nhân
đây, Tệ Huynh cũng xin nói thêm về sự cầu nguyện và sẽ có Đức Bồ Tát đến sau ít
phút để giáo đạo đàn trung.([5])
Thế
thường người đời hay quan niệm sự cầu nguyện là được đáp ứng theo ý muốn với
lời van vái hiến dâng lễ lộc cúng bái. Sự cầu nguyện chỉ quan trọng đối với
người đời khi hữu sự, khi hoạn nạn.
Ngoài
ra, sự cầu nguyện còn bị lạm dụng trong vấn đề vay mượn
trước Thiêng Liêng để đóng trọn vai trò của một người khoác áo nhà sư hay thầy
bóng,([6]) phù
pháp ([7]) cộng
cả chức sắc, chức việc trong các cuộc cúng tế đình đám, quan hôn tang tế. Vì
vậy sự linh ứng của Thiêng Liêng không còn trọn đức tin cho đúng với ý nghĩa
thiêng liêng nữa.
Thần Thánh,
Tiên Phật, luôn luôn do nguồn cảm linh diệu chân thành của thế nhân mà ứng đắc
hộ trì.([8]) Nhớ lại
Thánh Khổng Tử xưa kia lúc lâm trọng bệnh, chư môn sanh xin phép lập đàn khẩn
đảo cầu thọ cho thầy, Đức Khổng Tử bảo rằng: “Chính ta đã cầu đảo từ lâu rồi.” ([9])
Như
vậy sự cầu nguyện không phải là một vấn đề tầm thường như tất cả những điều cầu
nguyện đã nêu trên mà xét lại để tìm hiểu hai tiếng cầu nguyện.
Cầu
nguyện tức là tìm sự ước muốn, ước nguyện của chính mình. Muốn tìm cho đặng
những điều ấy, phải thật tâm để tìm trong giờ phút thiêng liêng hằng ngày giữa
cuộc sống. Giờ phút thiêng liêng ấy luôn luôn đến với những tâm hồn vô tư minh
chánh,([10]) hằng
nghĩ đến sự sống còn trong lẽ đạo. Những người ấy không ước vọng gì riêng tư
cho cá nhân mình cả, vì họ đã thông thấu sự công bằng của Tạo Hóa. Bốn mùa tám
tiết sanh trưởng thâu tàng không dời đổi. Tạo Hóa đã dành sẵn tất cả sự ước
muốn của con người thánh thiện. Không có điều nào hữu dư hay bất túc cả,([11]) nên
chi ([12]) tiền
nhân lưu lại những kinh điển đủ phương pháp tế tự mà vấn đề cầu nguyện được kết
thúc vào bốn chữ công đức vô lượng.
Đối
với các bậc thánh vương vì thiên hạ, đối với người chân tu vì nhơn sanh vong kỷ
vị tha,([13]) vì
sao cầu nguyện lại được công đức vô lượng? Đã bàn qua hai chữ cầu
nguyện, tất phải nói đến công đức để mỗi người đều ý thức đến sự quan trọng
của lời cầu nguyện.
Theo
Phật gia có nói: Mỗi người đều có Phật tánh, Phật tánh hằng tại trong Phật thân
là pháp thân, hóa thân và báo thân. Công đức vô lượng sẽ là mầm để khởi ánh huệ
đăng cho ba thể Phật ấy, nên nói rằng: “Tự
tánh bất ly thị công, ứng dụng vô
nhiễm thị đức. Tự tu tánh thị công, tự tu thân thị đức. Niệm niệm vô gián thị công, tâm hành bình đẳng thị đức.” ([14])
Tạm
nói nghĩa như vầy: Không lìa tự tánh là công, lúc ứng dụng mà không nhiễm ngoại
vật là đức. Mình biết tu lấy tánh mình
để cho suất tánh ([15]) đó là công, mình biết tu thân mình trọn lành đó là đức. Niệm niệm không bị xen lẫn thiên lệch loạn động mà không dứt
chánh niệm là công, lòng hằng phẳng
lặng xem tất cả đều bình đẳng là đức.
Tóm
lại, cầu nguyện mà được công đức không lường là do những tác dụng ấy. Như khóa
tịnh Đông Chí vừa qua, chư tịnh viên nam nữ đã hành trì công đức vô lượng để
đem lại sự hồi hướng cho đất nước, đồng bào.
Ôi! Lớn
lao thay, lời cầu nguyện, tâm cầu nguyện! Kiểm điểm lại để mỗi khi nhắc đến hai
tiếng cầu nguyện, phải liên tưởng ngay đến lý siêu việt và tác dụng uy linh của
sự cầu nguyện.
Tệ
Huynh cũng xin mừng cho chư hiền Thiên ân hướng đạo và chư tịnh viên nam nữ
trong khóa tu vừa qua. Nhưng cũng nói thêm là chưa đủ. Nỗi thống khổ điêu linh
của đồng loại như lửa cháy muôn xe. Phải cần đến nước trong tịnh thủy bình mới
mong chữa được. Dầu có gom hết sông biển, rạch ngòi, cũng không thể dập tắt
được lửa dục của thế nhân. Nhưng mà tịnh thủy bình ở đâu bây giờ hỡi chư liệt
vị?
Nói
đến tịnh thủy bình, chắc hẳn chư liệt vị hiện diện đây đa
số – nếu không nói là hầu hết – đều nghĩ đến Đức Bồ Tát Quan Âm mới có tịnh
thủy bình. Như vậy, ai đi cầu Đức Quan Âm Bồ Tát để được tịnh thủy bình hầu chế
ngự lửa dục trần gian? Chắc hẳn phải có Tôn Ngộ Không mới cầu viện được. Mà Tôn
Ngộ Không là gì? Nếu là một Thạch Hầu Vương xuất gia thì đã quá khứ lâu rồi, ở
tận đời Đường bên Trung Hoa. Nếu không có Ngộ Không, hẳn
thế giới này phải tiêu diệt vì lửa dục rồi đây!
Tệ
Huynh vì sự vui mừng được cùng chư liệt vị tâm tình đạo sự, giúp đỡ lẫn nhau
bằng lời, bằng linh điển gọi là lòng đạo với đất nước, dân tộc và chư đạo tâm,
đạo hữu.
Đức
Bồ Tát sắp đến.
THI
Thương đời nào biết phải làm
sao?
Ráng cần tu tiến gấp
mau mau.
Xin chào tất cả chư Thiên ân, chư liệt vị. Lui.
TIẾP ĐIỂN
Thuyền
từ lướt giữa sông mê
Gọi
người trần thế quay về bổn căn
Mây
chiều tám hướng bủa giăng
Chim
khôn tìm ổ mới rằng chim khôn
Cõi
trần tai nạn dập dồn
Hỡi
người người muốn bảo tồn tánh linh
Trường
đời là chỗ khai minh
Con
đường tiến hóa siêu sinh cõi Trời.
QUAN ÂM BỒ TÁT
Bần Đạo chào chư hiền sĩ, hiền muội. Miễn lễ. Chư hiền
sĩ, hiên muội đồng an tọa.
Nhân đàn lệ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Bần Đạo
nhìn thấy các nguyên nhân cu hội ([18]) trước điện tiền nên tạm dừng chân ít phút để khuyến
nhủ chư hiền sĩ, hiền muội hiện diện hôm nay mấy dòng lý
đạo.
Nầy chư hiền sĩ, hiền muội! Cùng là con người sanh
trên cõi thế, nhưng nhìn qua một lượt trước tầm mắt của mỗi người đều phân tách
được sự sang hèn, khôn dại. Trong các giai tằng ([19]) ấy cũng là hình hài, tai mắt, mặt mày, cũng Tạo Hóa
phát ban cho sự sống còn đồng đều không thiếu, nhưng vì sao lại chinh lệch khác
biệt như vậy?
Chư hiền sĩ, hiền muội đã có đọc qua những câu chuyện
nhân quả, luân hồi ít nhiều rồi. Đó là một vấn đề được thông qua. Tất cả mọi
người biết có cảm giác và ứng hiện. Nếu chư hiền sĩ, hiền muội hoặc tất cả nhơn
sanh trên cõi thế đều hiểu rõ được nguồn gốc của nhân quả, luân hồi mà khắc
phục lấy bản thân đúng theo sự hiểu biết, chắc hẳn thế gian
không có cảnh trầm luân đau khổ như hiện thời.
Bần Đạo phân như vậy, chư hiền sĩ, hiền muội đã ý thức
được thế nào là diệt khổ để đem lại đời thanh bình an lạc cho nhơn loại. Muốn
diệt khổ tất mỗi người phải tự diệt lấy những nỗi khổ của chính mình. Mà khổ
của chính mỗi người là gì?
Trời che đất chở, non xanh nước biếc, hoa cỏ tươi màu,
mỗi mỗi sự vật đều sống trong lý thiên nhiên của trời đất. Nhưng khi con người
muốn dời non tát biển, phá núi đắp sông, muốn chia ranh lấn đất, muốn chọc trời
khuấy nước; từ cái muốn lớn đến cái muốn nhỏ, con người đều hướng theo ánh sáng
chan hòa của tầm mắt để tiến bước trên sự ước muốn. Nhưng khi va chạm vào một
bức tường nào đó, sự ước muốn trở lại hành hạ tâm hồn, không riêng gì xác thân
đang đau khổ.
Bắt nguồn từ đó, con người bỗng nổi lên ngọn lửa thứ
hai để tiếp theo lòng tham dục là sân. Khi đã sân rồi ắt phải si. Ba ngọn lửa
bừng cháy trong lòng để tiêu tan tất cả những gia tài sự nghiệp thiêng liêng
của Thượng Đế đã ban cho.
Hiện giờ, con người chỉ còn cái túi da chứa đựng đủ
tất cả những thứ ô trược hồng trần nên nặng nề không tiến bước được nữa phải
ngồi lại để cho các chủng tử ([20]) đã thâu thập nứt mầm sanh hoa kết quả và hột giống ấy
sẽ triền miên mọc trên cõi đời ô trược này.
Trái lại, trong trường tiến hóa của vạn linh mà là một
nguyên nhân hạ thế, chỉ vì vô tâm một phút, không cẩn trì ([21]) chơn tánh bổn linh để chịu dừng chân thối bước rồi
nhìn cõi đời, nhìn sự vật chi chi cũng đều là đau là khổ, là oan trái, là
nghiệp lực tất cả.
Chư hiền sĩ, hiền muội ôi! Bao nhiêu duyên phước mà
chư hiền sĩ, hiền muội đã tạo ra ở tiền kiếp, hiện tại mới
được giác ngộ trước kỳ đại ân xá. Hãy gìn giữ lấy, hãy dặn lòng tu tiến, tỉnh
ngộ. Dầu ở vào cương vị nào, sang hèn, khôn dại, tất cả đều còn có điểm linh
chơn tánh của Thượng Đế. Tuy mang áo cẩm bào,([22]) lòng đừng mến tục; dầu trong bô vải,([23]) chớ để cho thân tâm trầm nịch ([24]) chốn mê đồ.([25]) Cuộc
vinh sang Trời dành là để chư hiền làm nấc thang tiến hóa. Khi đã có một nhân tốt ở quá khứ, nếu
không gìn giữ hột nhân ấy để cây phúc được sum sê thì cơ
hội ân xá này cũng khó trở về quê xưa vị cũ. Ngày mai đây khi mặt trời lặn
xuống, bóng thỏ lố hình, Bắc Đẩu chói sáng thì chúa sơn lâm cũng phải trở lại
rừng già, cuộc hổ đấu long tranh sẽ kết thúc sau Hội Long Hoa.
Nầy các nguyên nhân! Nầy chư hiền sĩ, hiền muội hiện
diện hôm nay! Hãy nhớ lời Bồ Tát Như Lai, tâm tâm niệm niệm đừng ly, khoác cho
mình một chiếc đạo bào ([26]) để làm thiết giáp tránh cơn lửa đạn mưa tên, thắp cho
mình một ngọn đuốc thiêng để thấy cạm bẫy chông gai mà tiến
bước. Nếu có duyên cùng Bần Đạo dìu dắt qua cõi tạm bến mê, sẽ được ban ơn khi
gặp lại.
Bần Đạo cùng chư Tiên Phật lúc nào cũng tận độ nguyên
nhân hồi đầu ([27]) hướng thiện,([28]) nhưng chờ chư nguyên nhân có hai chữ thật tâm.
Bao nhiêu đó thay vì muôn ngàn nén hương khẩn đảo.([29])
Bần Đạo đến hôm nay đã có ý thâu những người hữu duyên
hữu phúc trong kiếp nạn chúng sanh. Như đã nói, chờ sự thật tâm của mỗi người.
(...)
Bần Đạo sẽ còn thâu các nguyên nhân hữu căn hữu kiếp
trong một đàn khác. (...)
THI
Đôi
lời Bồ Tát dạy hôm nay
Mong
mỏi người lành thoát họa
tai
Trở
lại đường Tiên cùng nẻo Phật
Thanh
nhàn thong thả tháng năm ngày.
(...) Bần Đạo ban ơn cho toàn thể chư đạo tâm nam nữ.
Chư nguyên căn hữu phước sẽ được ơn trong một đàn khác. Thăng.
Câu 1: ĐỐ mà không sắc là ĐÔ. / Câu 2: THÔNG mà sắc có thành THỐNG. / Câu 3: QUAN mà thêm
hỏi thành QUẢN. / Câu 4: THÂN mà thêm
huyền thành THẦN.
Vậy, ngài là Đức Đô Thống Quản [Địa]
Thần. Cho tới tháng 4-1975, Sài Gòn gọi là đô thành, gồm chín quận đánh số
từ 1 tới 10 (không có quận 9). Căn cứ theo quả vị của ngài thì biết ngài cai quản
tất cả (thống quản 統管) các ông Địa (Địa Thần) trong phạm vi đô thành Sài
Gòn.
([3]) Minh Đức Đạo Nhơn: Thế danh Lê Văn Còn,
nguyên là Giáo Sư Thượng Còn Thanh (Đầu Họ Đạo thánh thất Bình Hòa, thuộc Hội
Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo). Hai con trai của ngài là Lê Văn Non (1913-1985,
thánh danh Đạt Minh, đắc quả Quang Minh Huệ Tiên năm 1986) và Lê Văn Bá
(1918-2008, thánh danh Chí Tín) đều ở trong lớp Thiên ân hướng đạo tiền khai của
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (do Đức Chí Tôn thành lập năm
1965).