Thứ Tư, 17 tháng 10, 2018

07 KINH VÀO HỌC - ĐẠO UYỂN ĐÔNG 2018

Image result for three lotuses

KINH VÀO HỌC
(Giọng nam xuân)
I. KINH VĂN
Đại Từ Phụ xin thương khai khiếu
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ
Gần điều nên, lánh lẽ hư
4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
Dò đường thánh khó khăn chẳng nại
Tùng Khuôn Hồng nhỏ dại lớn khôn
Buộc yêu thương bạn đồng môn
8. Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
Nguyện tam cang gìn tâm trọn đạo
Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn
Nguyện nên hương hỏa tông đường
12. Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
Cầu khẩn đấng chơn linh nhập thể
Đủ thông minh học lễ học văn
May duyên gặp hội long vân
16. Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
(niệm một lần)
II. XUẤT XỨ
Bài kinh này do tiền khai Phạm Hộ Pháp (1890-1959) đặt, sau đó có Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nhuận sắc. (Tòa Thánh Tây Ninh, Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo. Bản in 1992, tr. 103, chú thích 1.)
III. CHÚ GIẢI
Kinh Vào Học được đọc trước khi bắt đầu một buổi học trong nhà đạo. Giảng viên và các học viên đứng ngay ngắn, chắp tay đặt trước ngực và cùng đọc kinh.
Giọng nam xuân: Giọng đọc kinh theo làn điệu nhạc lễ truyền thống của dân tộc, nhịp hơi nhanh, biểu thị nét vui tươi, lòng thơ thới. (Còn một giọng khác là nam ai, nhịp chậm, biểu thị nét buồn thảm, bi ai. Kinh đọc trong đám tang đều theo giọng nam ai.)
Câu 1-2: Đại Từ Phụ xin thương khai khiếu / Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
Đại Từ Phụ 大慈父Người cha rất hiền, rất thương con (the Great Merciful Father), tức là Đức Chí Tôn, Đức Cao Đài, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
khai khiếu:
a. khiếu : Khả năng đặc biệt, năng lực về phương diện tinh thần (an instinct for). Thí dụ: khiếu thẩm mỹ (biết thưởng thức nghệ thuật hoặc biết sáng tạo nghệ thuật; an instinct for beauty), khiếu văn chương (biết thưởng thức văn chương hoặc biết làm thơ, viết văn; an instinct for literature).
b. khai khiếu 開竅: Mở trí thông minh, làm cho tâm trí sáng suốt, mau chóng hiểu đúng được việc gì (helping to get a quick and correct understanding of something).
trẻ thơ: Con trẻ còn khờ dại (immature children). Khi vào cửa đạo, dù tuổi đời có nhiều đến đâu chăng nữa, thì trước Đức Chí Tôn (Đấng Cha Trời) hay Đức Phật Mẫu (Đức Mẹ) ai ai cũng chỉ là đứa con ngây thơ non dại.
Văn từ: Văn chương, chữ nghĩa. Tức là lời kinh, thánh ngôn thánh giáo có trong bài học; kể luôn cả lời văn, lời nói của giảng viên lúc giảng bài.
Đại ý câu 1-2: Cầu xin Đại Từ Phụ (Thượng Đế) thương chúng con, mở trí thông minh cho chúng con có đầy đủ sáng suốt, học hiểu được hết những lời văn, chữ nghĩa diễn bày đạo lý.
Câu 3-4: Gần điều nên, lánh lẽ hư / Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
điều nên: Điều phải, điều hợp với đạo đức.
lánh: Xa lánh.
lẽ hư: Điều xấu xa, sai trái, không hợp với đạo đức.
nương: Dựa vào, nhờ cậy vào.
gươm thần huệ:
a. thần huệ: Trí huệ thần diệu (nhiệm mầu). Sự sáng suốt mầu nhiệm, nhờ đó con người biết phân biệt để bỏ điều sai lầm mà làm theo điều chân chính.
b. gươm thần huệ: Gươm trí huệ thần diệu. Con người muốn khỏi đau khổ, phiền não phải dùng trí huệ thần diệu suy xét các nguyên nhân tạo ra não phiền, đau khổ và rồi cương quyết cắt đứt mọi sự ràng buộc, mọi mối liên hệ với chúng. Do đó, trí huệ thần diệu được ví như thanh gươm sắc bén. Truyện thơ dân gian Việt Nam Quan Âm Thị Kính có câu:
Này gươm trí huệ mài đây
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.
đặng trừ: Để trừ bỏ được, để diệt trừ được.
nghiệt căn: Mầm mống xui khiến con người phạm tội.
Đại ý câu 3-4: Chúng con xin gần gũi điều tốt lành, xa lánh điều xấu xa. Chúng con xin nương nhờ vào sức mạnh trí huệ của chúng con, lấy trí huệ làm gươm bén để chặt đứt mọi mầm mống gây tạo ra tội lỗi.
Câu 5-6: Dò đường thánh khó khăn chẳng nại / Tùng Khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
: Dò dẫm, lần bước đi từ từ để tìm hiểu, học hỏi.
đường thánh: Con đường trau dồi phẩm hạnh để người trần tục trở nên thanh cao như các vị Thánh Hiền. Giáo lý Cao Đài dạy người đời tu học cho nên bậc Thánh Hiền, Tiên Phật; do đó đường thánh cũng có nghĩa đường lối tu hành theo giáo lý Cao Đài.
khó khăn chẳng nại: Chẳng vì khó khăn mà ngại, e sợ.
tùng: Noi theo, đi theo.
Khuôn Hồng:
a. hồng: to lớn. Thí dụ: hồng ân là ơn to tát (của Đức Chí Tôn ban cho).
b. khuôn: Cái khuôn đúc ra đồ vật. Từ Hán-Việt gọi là quân.
c. Khuôn Hồng: Hồng quânCái khuôn lớn đúc ra con người và muôn vật trong vũ trụ này; tức là Trời, Thượng Đế. (Khuôn Thiêngcũng đồng nghĩa.)
nhỏ dại lớn khôn:
a. Từ lúc còn nhỏ dại cho đến khi khôn lớn.
b. Từ đàn em em nhỏ dại cho đến bậc đàn anh đàn chị đã khôn lớn.
Đại ý câu 5-6: Chúng con dù là đàn em nhỏ dại hay hàng anh chị khôn lớn cũng đều nguyện noi theo Đức Chí Tôn, lần bước theo đường lối tu học của đạo Cao Đài, không sợ khó khăn trở ngại.
Câu 7-8: Buộc yêu thương bạn đồng môn / Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
buộc: Phải, bắt buộc.
bạn đồng môn: Bạn cùng học một Thầy, một Đạo.
nghĩa: Cách sống hợp lẽ phải, đạo đức. Thí dụ: Nghĩa thầy trò, nghĩa vợ chồng.
nhân: Lòng thương người, thương vật.
vẹn giữ: Giữ gìn cho trọn vẹn.
xác hồn trăm năm: Suốt cả cuộc đời, từ lúc sống cho tới ngày chết.
Đại ý câu 7-8: Chúng con bắt buộc phải thương yêu bạn đồng đạo, suốt cuộc đời xin giữ tròn vẹn cách sống nhân nghĩa (thương người thương vật, cư xử đúng lẽ phải).
Câu 9-10: Nguyện tam cang gìn tâm trọn đạo / Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn.
nguyện: Tự nhủ, tự cam kết sẽ làm đúng những điều mà bản thân coi là thiêng liêng.
tam cang: Tam cương. Ba giềng mối, ba mối quan hệ:
a. quân thần cang: Xưa là quan hệ vua (quân) và tôi (thần); nay là quan hệ công dân và nhà nước. Tức là dân phải trung với nước.
b. phụ tử cang: Quan hệ cha (mẹ) và con cái. Tức là con phải hiếu với cha mẹ.
c. phu thê cang: Quan hệ chồng (phu) và vợ (thê). Tức là chồng vợ phải thương yêu nhau, tôn trọng nhau, chung thủy với nhau.
Tam cang là căn bản đạo làm người, trung thành với Tổ Quốc, hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu, tôn trọng người bạn đời của mình (vợ hay chồng).
gìn tâm trọn đạo: Giữ lòng chân chánh để thực thi trọn vẹn đạo lý ở đời.
ngũ thường: Năm hằng. Năm đức tính mà con người phải luôn luôn có:
a. nhân: Xem giải thích câu kinh 4.
b. nghĩaXem giải thích câu kinh 4.
c. lễ: Sự trang nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi. Thí dụ: ăn nói tục tằn là trái lễ; xem những hình ảnh, sách vở thô tục là trái lễ...
d. trí: Sáng suốt, biết phân biệt phải trái, biết lúc nào tiến lúc nào lui. Thí dụ: Ông Trương Lương sau khi giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán, đã từ quan vì biết Lưu Bang lòng dạ không chung thủy, sẽ giết hại công thần. Nhờ có trí nên Trương Lương thoát nạn. Còn Hàn Tín ở lại làm quan to, sau bị Lưu Bang lập mưu giết đi. Hàn Tín vì thế bị chê là thiếu trí.
e. tín: Đối với bản thân thì tự tin ở mình; đối xử với người khác thì không dối trá, lừa gạt; đối với các Đấng thiêng liêng thì làm đúng những gì đã nguyện hứa.
hiếu thảo: Thương kính, nhớ ơn và biết phụng dưỡng cha mẹ.
làm khuôn: Làm thành khuôn phép, mẫu mực noi theo.
hiếu thảo làm khuôn: Người xưa bảo “Nhân sinh bách hạnh, hiếu vi tiên.” Nghĩa là người đời có trăm đức hạnh thì đứng đầu là hiếu. Do đó, tuy câu kinh nói rộng ra gồm các đức hạnh như tam cương, ngũ thường nhưng căn bản vẫn lấy đạo hiếu làm khuôn phép, mẫu mực.
Đại ý câu 9-10: Chúng con nguyện giữ lòng chân chánh, sống trung hiếu, thủy chung, sao cho nên người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hiếu thảo là khuôn phép căn bản.
Câu 11-12: Nguyện nên hương hỏa tông đường / Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
hương hỏa: Nhang và đèn (lửa). Tức là việc thờ cúng tổ tiên.
tông đường: Nhà thờ tổ tiên.
lê thứ: Dân chúng.
trường công danh: Môi trường làm việc có danh vọng, quyền chức ở đời.
Đại ý câu 11-12: Chúng con nguyện rằng nơi gia đình thì giữ trọn đạo hiếu, tôn kính phụng thờ tổ tiên. Ra xã hội, nếu chúng con có quyền chức thì xin nguyện thương yêu phục vụ dân chúng.
Câu 13-14: Cầu khẩn đấng chơn linh nhập thể / Đủ thông minh học lễ học văn.
cầu khẩn: Thiết tha cầu xin.
nhập thể: Nhập vào thể xác. (Nhưng trong câu kinh này cần hiểu thoát ý. Xem chú giải đấng chơn linh bên dưới.)
đấng chơn linh: Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (quyển II, 1966, tr. 66), Đức Chí Tôn dạy: “Thầy đã nói rằng nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng đấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần Thánh, Tiên Phật và các Đấng trọn lành nơi Ngọc Hư Cung.” 
Chơn linh ấy cũng chính là lương tâm, tánh Trời tự nhiên của mỗi người. Khi con người gây ra lỗi lầm đó là lúc tánh phàm lấn lướt tánh Trời, che lấp lương tâm, làm cho con người trở nên mê muội, tối tăm. Vậy cầu khẩn đấng chơn linh nhập thể không có nghĩa là cầu đấng chơn linh ở ngoài thân nhập vào trong thân xác; câu kinh có nghĩa thúc giục phần tánh Trời trổi dậy chế ngự tánh phàm, để con người trở nên sáng suốt, thông minh.
học lễ học văn: Truyền thống dân tộc có câu Tiên học lễ, hậu học văn, hoặc Có học phải có hạnh. Văn (kiến thức, học vấn, tài năng) phải đặt trên nền tảng lễ (đạo đức, hạnh kiểm), có như vậy mới biết đem tài giúp đời, giúp đạo. Người tài càng cao mà thiếu đức thì gây hại cho đời cho đạo càng nghiêm trọng. Vì thế nền giáo dục Cao Đài coi trọng cả đức dục (lễ) lẫn trí dục (văn).
Đại ý câu 13-14: Chúng con tha thiết cầu xin cho phần chơn linh sáng suốt sẵn có trong thân trợ giúp chúng con phát huy trí thông minh để học hỏi, trau dồi cả về đức lẫn tài.
Câu 15-16: May duyên gặp hội long vân / Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.
may duyên: Gặp cơ hội tốt, thuận lợi.
hội long vân: Hội rồng mây. Có câu rồng gặp mây, cá gặp nước; ý nói người tài đức gặp cơ hội thuận tiện, được nhà nước tin dùng, có thể thi thố tài đức ra giúp đời, giúp đạo.
thuyền thơ: Con thuyền chở sách vở (thư, thơ); ý nói thuyền của người học trò.
Các Đằng: Gác Đằng, tên đầy đủ là Đằng Vương Các.
Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa: Ngọn gió đưa con thuyền của người học trò đến thẳng Đằng Vương Các. Câu đối cổ Trung Hoa có vế trên là: Thời lai phong tống Đằng Vương Các, nghĩa là khi thời vận tới, gió thổi thuyền tới gác Đằng Vương, ngụ ý kẻ có tài gặp cơ hội thuận lợi thì thành công lẫy lừng.
ĐIỂN TÍCH: Gác Đằng Vương dựng ở đất Hàng Châu (Trung Hoa) để ghi nhớ công trận của Lý Nguyên Anh (được phong tước Đằng Vương). Năm 675, thiếu niên Vương Bột (650-676) trong lúc vượt biển thăm cha đang làm thứ sử Giao Châu (Việt Nam), tình cờ một trận gió lớn thổi bạt thuyền đến gác Đằng Vương. Nơi ấy đang tổ chức tranh tài thi phú nhân dịp vừa tái thiết xong gác. Vương Bột sáng tác bài Đằng Vương Các Tự chinh phục tất cả khách làng thơ và lưu danh thiên cổ. Trong bài đó, có hai câu vẫn được đời truyền tụng là thần cú: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi / Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc.” / (Dịch sát nghĩa từng chữ: Ráng chiều với cò lẻ cùng bay / Nước thu cùng trời dài một sắc.)
Đại ý câu 15-16: Chúng con cầu xin gặp được cơ hội thuận lợi, để đem tài học ra thi thố giúp đời, giúp Đạo được thành công rực rỡ.
IV. TÓM TẮT ĐẠI Ý TOÀN BÀI KINH VÀO HỌC
Cầu xin Đại Từ Phụ (Thượng Đế) thương chúng con, mở trí thông minh cho chúng con có đầy đủ sáng suốt, học hiểu được hết những lời văn, chữ nghĩa diễn bày đạo lý.
Chúng con xin gần gũi điều tốt lành, xa lánh điều xấu xa. Chúng con xin nương nhờ vào sức mạnh trí huệ của chúng con, lấy trí huệ làm gươm bén để chặt đứt mọi mầm mống gây tạo ra tội ác.
Chúng con dù là đàn em nhỏ dại hay hàng anh chị khôn lớn cũng đều nguyện noi theo Đức Chí Tôn, lần bước theo đường lối tu học của đạo Cao Đài, không sợ khó khăn trở ngại.
Chúng con bắt buộc phải thương yêu bạn đồng đạo, suốt cuộc đời xin giữ tròn vẹn cách sống nhân nghĩa (thương người thương vật, cư xử đúng lẽ phải).
Chúng con nguyện giữ lòng chân chánh, sống trung hiếu, thủy chung, sao cho nên người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hiếu thảo là khuôn phép căn bản.
Chúng con nguyện rằng nơi gia đình thì giữ trọn đạo hiếu, tôn kính phụng thờ tổ tiên. Ra xã hội, nếu chúng con có quyền chức thì xin nguyện thương yêu phục vụ dân chúng.
Chúng con tha thiết cầu xin cho phần chơn linh sáng suốt sẵn có trong thân trợ giúp chúng con phát huy trí thông minh để học hỏi, trau dồi cả về đức lẫn tài.
Chúng con cầu xin gặp được cơ hội thuận lợi, để đem tài học ra thi thố giúp đời, giúp Đạo được thành công lừng lẫy.
V. CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG CỦA BÀI KINH VÀO HỌC
Bài kinh này ngoài tác dụng vô vi (siêu hình) là cầu xin Ơn Trên giúp sức, mở trí cho người học đạo lại còn có giá trị về luân lý theo nhân đạo Nho Giáo. Mỗi khi tụng đọc bài kinh, ấy là lúc người đi học tự nhắc nhở mình phải giữ gìn đạo làm người: đối với nước, với đồng bào, với gia đình tổ tiên, với vợ chồng, với bạn bè.
Bài kinh dạy cho người đi học một bài luân lý rằng có học, có tài phải có hạnh đức. Đã thọ ơn Trời mà học hành giỏi giắn thì phải biết đem tài học ấy ra giúp đời, giúp dân, giúp nước, giúp Đạo.
Hiểu sâu ý nghĩa bài kinh, người tín đồ Cao Đài biết xa thêm rằng không phải chỉ tụng kinh này khi học giáo lý nơi cửa Đạo, mà ngay cả trên con đường học hành ở ngoài đời, vẫn có thể tụng kinh này, với ý hướng cao thượng là học cho thành tài không phải để vinh thân phì gia, mưu cầu lợi ích riêng tư, mà học để giỏi giang, có đủ đức tài tâm hạnh đem ra phụng sự đời và Đạo.


HUỆ KHẢI soạn