Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

02 ĐÀN KHAI XUÂN NĂM XƯA (ĐẠO UYỂN XUÂN 2018)

ĐÀN KHAI XUÂN NĂM XƯA
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài
Tuất thời, 01-01 Giáp Dần (Thứ Tư 23-01-1974)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
Pháp Đàn: Huệ Chơn; Đồng Tử: Thanh Thủy;
Độc Giả: Hồng Mai;
Điển Ký: Ngọc Kiều, Hồng Cẩm, Kim Nhung, Lập Hạnh.
THI
HIỂN linh nhờ trước biết tu hành
THẾ sự ([1]) xem thường chữ lợi danh
ĐẠO đức lập tâm bồi cội phước
NHƠN tình thương kẻ lỡ đàng quanh.
HIỂN THẾ ĐẠO NHƠN ([2])
Chào chư Thiên ân hướng đạo,([3]) chư đạo tâm lưỡng phái. Mừng các em đồng nhi, lễ sĩ. Mừng hiền nương ([4]) Diệu Hạnh.
Tệ Huynh rất mừng cho các em đã chung tâm lo gìn giữ và phát triển họ đạo sở tại.([5]) Nhờ tâm thành của các em nên chư Thiên hộ pháp ([6]) đã hộ trì ([7]) cho các em bằng cách rửa sạch, quét dọn rác rến, trở ngại chung quanh.([8]) Các em đã có một Ban Cai Quản lành mạnh thì còn lo gì không có ngày cùng toàn Đạo trên đường phổ tế độ nhơn.([9])
Năm mới, nhân dịp xuân về, Tệ Huynh chúc mừng chư liệt vị ([10]) và các em.
THI
Xuân đến nỗi lòng đạo chứa chan
Xuân tâm, xuân hạnh đức huy hoàng
Trời xuân dầu có bao thay đổi
Thượng Đế hồng ân vẫn bố ban.
Còn thằng Tôn, cháu được như vậy Bác mừng.
Chư liệt vị và các em thành tâm tiếp Lão Huynh Thiên La Đạo Nhơn.([11]) Tệ Huynh xin giã từ chư liệt vị và các em. Giã từ hiền nương Diệu Hạnh. Lui.
THIÊN LA ĐẠO NHƠN
Tệ Huynh xin chào chư Thiên ân hướng đạo. Mừng các em đạo hữu địa phương.
Nhân dịp đầu xuân Giáp Dần, Tệ Huynh đến trước để báo tin có Đức Lê Đại Tiên giáng. Trong lúc chờ đợi, Tệ Huynh cần có vài điều đạo sự muốn hàn huyên, dặn dò các em đạo hữu địa phương. Vậy Tệ Huynh xin thỉnh chư Thiên ân hướng đạo và các em đồng an tọa.
Hỡi các em!
PHÚ LỐI VĂN
Giáp Dần là năm mở đầu
cho một chu kỳ thập niên ([12]) thay đổi,
Nghiệp quả đà ([13]) có dịp trả xong,
Người tu hành phải cố gắng bền lòng,
Giữ hạnh đạo và bồi công lập đức.
Cảnh Tiên tục tuy nay xa cách,
Nhưng tình đệ huynh vẫn như tự thuở nào,
Hễ mỗi lần có dịp gặp nhau,
Lời khuyến đạo ([14]) là mở đầu cho câu chuyện.
Em còn nhớ các thời kỳ chuyển biến,
Từ bốn mươi lăm ([15]) cho đến ngày nay,
Đất nước này lắm lúc đổi thay,
Từ thôn dã đến ngay thành thị.
Cảnh quốc phá gia vong ([16]) tự thỉ,([17])
Nếp thanh bình đảo lộn khắp nơi nơi,
Xã hội này tan tác tả tơi,
Từ tập tục cho đến thói đời cũng đổi.
Sống tạm bợ, ở thì ăn xổi,([18])
Chỉ biết ngày nay, mặc trối ([19]) cho ngày mai.
Nào thanh liêm,([20]) nào tiết tháo ([21]) mấy ai?
Nào địa vị, nào tiền tài lắm kẻ!
Nào ái quốc, nào ái quần ([22]) hiếm thế,
Nào danh nhân, nào sĩ khí ([23]) đâu nào?
Kẻ khốn nàn kêu có vọng đến Trời cao?
Người đói khổ thét gào không thấu Chúa!
Lớp trọc phú ([24]) xa hoa nhảy múa,
Bên cạnh người thiếu áo thiếu cơm.
Trai bạc bài, nghiện ngập, du côn,([25])
Dưới quần túm, đầu chơm bơm tai tóc.
Gái trang sức hở hang cạnh góc,
Còn đâu nào vóc ngọc thân ngà!
Chữ chính chuyên ([26]) liễu yếu quần thoa,
Câu tứ đức,([27]) tùng ba ([28]) đâu còn nữa!
Lại nhảy nhót đua đòi sanh sứa,([29])
Lại bình quyền má tựa môi kề,
Nếu không vầy, e thiên hạ nói mình quê,([30])
Trà, rượu, thuốc, ô kê, thôi đủ thứ.
Nào đức hạnh đâu còn gìn giữ,
Nào nết na thục nữ,([31]) thiền quyên,([32])
Nào anh thư ([33]) tiết liệt ([34]) thánh hiền,
Chỉ biết có bạc tiền là trên hết.
Mẹ Tổ Quốc đang trên giường giãy chết,
Bịnh lâu năm sức kiệt thân mòn.
Chỉ trông nhờ cậy ở đàn con,
Ôi thanh thiếu! Ôi mầm non! Ôi hy vọng!
Các em muốn sống một cuộc đời đáng sống,
Đừng chạy theo cái bóng mà buông hình,
Rồi quên đi truyền thống anh linh,([35])
Quên dân tộc, vô tình vong bản.([36])
May phước gặp Đạo Trời khai sáng,
Học cho thông và ráng tu hành,
Trước vẹn phần thế đạo thân sanh,
Rồi nuôi dưỡng tâm linh cho mẫn tuệ.([37])
Tu phải nhớ gìn lời minh thệ,([38])
Tu phải thông luật lệ quy điều,
Tình đạo đồng ([39]) phải biết thương yêu,
Nghèo không trách, đừng kiêu khi khá giả.
Nên cần kiệm để góp phần công quả,
Nên khoan dung mà hỷ xả cho nhau,
Lựa lời nói nhã nhặn ngọt ngào,
Tiếng độc ác mau mau chừa tránh.
Thành đạo bởi nhờ nơi tu tánh,([40])
Tu tánh thuần, đức hạnh mới cao,
Phật Tiên xưa cũng thế chớ khác nào,
Trước tu tánh để vào luyện mạng.([41])
Tánh mà được hồn nhiên bình thản,
Tâm lần hồi bực sáng ([42]) minh linh,([43])
Phát điển quang bao phủ quanh mình,
Làm cái vỏ vô hình bảo vệ.
Các thời cúng mõ chuông kinh kệ,
Phải thành tâm hiến lễ nghiêm trang,
Đừng miệng thì đọc rót oang oang,
Tâm phóng ngoại cả ngàn cây số.
Kềm tâm tánh hướng về một chỗ,
Tai lóng nghe cho rõ tiếng kinh,
Thân quỳ ngay, chẳng chút nghiêng chinh,
Hai mắt đứng chú nhìn Thiên Nhãn.
Sự nghèo giàu do nơi số mạng,
Đừng tự ti ([44]) rồi không lai vãng ([45]) thất chùa,
Cúng hành hương nhiều ít hơn thua,
Nào phải chỗ bán mua mà so sánh!
Rồi mặc cảm ([46]) nhiều lần xa lánh,
Xa Phật Tiên Thần Thánh, xa Trời.
Rồi gần đời lại nhiễm thói đời,
Bị bạn tác ([47]) kéo lôi xa Đạo.
Thánh thất dùng để làm nơi truyền giáo,
Tháng đôi lần giảng đạo thuyết kinh,
Dạy tu hành cho cả nhơn sanh,
Đừng tưởng quấy rồi tâm thành băng hoại.([48])
Phật ngày trước dưới cội bồ đề giảng dạy,
Khuyên nhơn sanh ác cải tùng lương,([49])
Nào có đâu thánh thất, thánh đường,
Cũng chẳng có hành hương nhiều ít.
Trước quốc biến ([50]) Đạo ([51])
lại phải càng khắng khít,([52])
Càng lo tu trước giúp ích cho mình,
Cho nạn tai sớm được giảm khinh,
Cho nghiệp lực ([53]) nhơn sanh tiêu tán.
Đầu năm mới có mấy dòng khuyên giảng,
Dạy các em cố ráng tu hành.
(...)
Nãy giờ đã luận đàm nhiều quá,
Thương các em khuyên khá nhiều lời.
Ráng ở sao cho thuận lòng Trời,
Và thuận thảo với mọi người tại thế.
Huynh cầu nguyện Chí Tôn Thượng Đế,
Ban ơn lành lớn bé trẻ già,
Cho tai nạn thoát qua không còn nữa.
Kìa Đức Lê Đại Tiên vừa đến. Tệ Huynh xin giã từ tất cả. Hẹn một dịp khác sẽ hàn huyên ([54]) nữa. Xin thành tâm nghinh tiếp.([55]) Thăng.
THI
Non sông hùng vĩ ánh dư đồ,([56])
Bền vững nhờ ai trước ([57]) điểm tô,
Hậu học ([58]) rước voi ([59]) cho chúng xéo,
Tiểu sanh ([60]) cõng rắn ([61]) để người xô.
Khăn tu lau ráo ([62]) ngàn mi ướt,
Áo đạo phủ choàng vạn cốt ([63]) khô,
Sa mạc tiếng vang hồn quốc sĩ,([64])
Anh hùng chính khí ([65]) ở nơi mô?
ĐẠI TIÊN LÊ VĂN DUYỆT
Lão mừng chư hiền đệ, hiền muội. Đầu xuân Giáp Dần, thừa lịnh Tòa Tam Giáo, Lão giáng trần trước để khai xuân cho thánh tịnh Ngọc Minh Đài, sau ban ơn và chúc lành cho chư hiền đệ, hiền muội. Vậy, Lão miễn lễ, chư hiền đồng an tọa.
Này chư hiền đệ, hiền muội! Thiên địa năng hành,([66]) bốn mùa tám tiết ([67]) không một giây phút nào ngừng nghỉ. Vạn vật nhờ đó mà sanh trưởng phát triển điều hòa, thảo mộc nhờ đó mà trổ lá kết hoa, thú cầm nhờ đó mà sanh sôi nẩy nở, v.v...
Vạn vật có sinh tồn là nhờ biết giao cảm được với lẽ vận hành của trời đất mà hòa mình cùng thiên địa. Con người là vật tối linh ([68]) đã được trực tiếp thọ nhận ân điển từ nơi Thượng Đế và có thể thay Trời đem ánh sáng đạo lý phổ cập ([69]) khắp trần gian, kiến tạo ([70]) cõi dinh hoàn ([71]) nơi nầy nên đời thượng nguơn thánh đức.
Lão mừng thấy chư hiền đệ đã ý thức được cái chơn lý ấy mà chịu khép mình trong cửa đạo, trau sửa thân tâm để trở thành hiền nhân, thánh triết.
Đầu năm mới, Lão chúc mừng chư hiền đệ, hiền muội:
THI
Ánh sáng thiên xuân bủa khắp tràn
Soi vào Tổ Khiếu ([72]) chiếu hào quang
Ma ha ([73]) gội rửa, tâm thanh tịnh
Phép báu gội nhuần, thể phách an
Quá khứ oan khiên ([74]) không chấp chứa
Vị lai ([75]) nghiệp lực chẳng vương mang
Nhẹ mình trỗi bước đường thiên lý
Phản bổn huờn nguyên ([76]) nhập niết bàn.
Lão chúc mừng Đầu Họ Đạo và Ban Cai Quản Ngọc Minh Đài.
THI
Cầm đuốc từ bi rọi chỉ đường
Dắt dìu khách tục khắp muôn phương
Đói no chẳng quản chung tay gánh
Thiếu đủ không sờn tự đảm đương
Gióng trống Lôi Âm truyền chánh giáo
Hồi chuông Bạch Ngọc Đạo hoằng dương
Nếu chưa đắc quả thành Tiên Phật
Cũng được Thánh Nhân ở thế đường.
(…)
Thanh thiếu niên,([77]) đồng nhi, lễ sĩ, nghe Lão ban ơn.
Thi
Lễ là trật tự nhạc hòa tâm
Hợp xướng đồng nhi nhịp vững cầm
Tế trí kỳ nghiêm ([78]) nên trang đạo
Ban ơn các trẻ buổi đầu năm.
(…)
Lão ban ơn lành cho chư hiền đệ, hiền muội hiện diện hôm nay.
Thi
Một năm vui đạo, một năm tròn
Lập đức vun bồi cội nước non
Hướng đạo hòa mình cùng đại chúng
Giã từ trở lại chốn Thiên môn.([79])
Thăng.




Huệ Khải chú thích:
([1]) thế sự 世事: Việc đời; việc trên đời; việc trần tục. | Secular affairs; worldly affairs.
([2]) Hiển Thế Đạo Nhơn 顯世道: Thế danh là Phan Văn Thanh (1890-1950). Sinh thời, tiền bối hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (đường Nguyễn Khoái, quận 4). Vì trót phạm lỗi lầm nên sau khi thoát xác tiền bối phải chịu đầu thai làm quái nhân trong sáu năm để đền tội xưa. May được bá tánh xót thương bố thí nên trong sáu năm làm quái nhân, tiền bối đã giúp song thân thoát cảnh cơ hàn và xây chùa làm nơi lánh đục tầm trong. Nhờ công quả trợ giúp mẹ cha trong việc xây dựng sự nghiệp đạo đức này, tiền bối trả xong nợ tiền khiên, mãn kiếp được trở về cung Thái Ất tịnh luyện trong chín năm, đắc vị Hiển Thế Đạo Nhơn. Tiền bối giáng cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 10-5 Ất Tỵ (Thứ Tư 09-6-1965) kể lại ngọn ngành việc trả quả trong sáu năm ấy. Xem: Diệu Nguyên, Câu Chuyện Đức Tin. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012, tr. 23-25. Quyển 25-3 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
([3]) hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu. | Those who lead their coreligionists. || Thiên ân hướng đạo 天恩向導: Người thọ ơn Trời để dẫn dắt đạo hữu. | Those who receive Heaven’s favours to lead their coreligionists.
([4]) hiền nương 賢娘: Vợ hiền (tiếng lịch sự khi gọi vợ mình). | A polite form of address to one’s wife.
([5]) họ đạo sở tại 所在教區: Họ đạo địa phương.| Local parish.
([6]) chư Thiên hộ pháp 護法諸: Các Đấng thiêng liêng bảo vệ chánh pháp. | The dharma-protecting gods.
([7]) hộ trì 護持: Giữ gìn và ủng hộ. | Protecting and supporting.
([8]) rửa sạch, quét dọn rác rến, trở ngại chung quanh: Ngụ ý nói không còn những tệ nạn xã hội chung quanh ngôi thánh tịnh ở quận Tư, nơi thường được coi là đất dụng võ của giới giang hồ. | Clearing all the surrounding rubbish and obstacles; clearing all the social evils around the holy house.
([9]) phổ tế độ nhơn 普濟度人: Cứu giúp cho mọi người biết tu hành để họ giải thoát. | Universally help humans cultivate themselves for their own freedom from samsara.
([10]) (chư) liệt vị ()列位: Quý vị, quý ngài. | All of you present; ladies and gentlemen.
([11]) Thiên La Đạo Nhơn 天羅: Thế danh Lê Văn Nghĩa (1881-1972), thánh danh Thiên La Tinh 天羅星, làm Đầu Họ Đạo thánh tịnh Ngọc Minh Đài.
([12]) thập niên 十年: Mười năm. | A decade. (Nói thập kỷ là sai.) || chu kỳ 周期: Khoảng thời gian giữa hai lần lặp lại liên tiếp của một sự việc. | A cycle || chu kỳ thập niên 十年周期: Cứ hết mười năm thì lặp lại một lần. / A decade cycle.
([13]) đà: Đã (cách biến âm, chuyển thanh trắc [đã] ra thanh bằng [đà] cho hợp luật thơ. Thí dụ: Nay đà rõ đặng nguồn cơn / Nào ai tính thiệt so hơn làm gì. [Lục Vân Tiên])
([14]) khuyến đạo 勸導: Khuyên bảo. | Admonishing, advising.
([15]) bốn mươi lăm: Năm 1945.
([16]) quốc phá gia vong 國破家亡: Nước tan, nhà mất. | The country was ruined and families were scattered.
([17]) tự thỉ (thủy) 自始: Từ đầu, từ ban đầu. | From the outset; from the beginning; ab initio. || Cảnh quốc phá gia vong tự thỉ: Từ khi bắt đầy xảy ra cảnh nước tan, nhà mất.
([18]) ở thì ăn xổi: Ăn xổi ở thì; chỉ tính chuyện tạm bợ trước mắt, không nghĩ đến chuyện lâu dài. | Day-to-day (adj); without consideration for the future.
([19]) mặc trối: Mặc kệ; trối kệ; không thèm quan tâm đến. | So much the worse for something or somebody.
([20]) thanh liêm 清廉: Trong sạch, không ăn hối lộ, không tham nhũng. | Honest; uncorrupted.
([21]) tiết tháo 節操: Ngay thẳng; cương trực. | Integrity.
([22]) ái quần 同胞愛: Yêu đồng bào. | Love for fellow citizens.
([23]) sĩ khí 士氣: Tiết tháo của người có học. | The learned’s integrity.
([24]) trọc phú 濁富: Kẻ giàu có mà lòng dạ bẩn thỉu. | A vile, moneyed person
([25]) du côn: Kẻ hay gây sự và hành hung. | A violent troublemaker; hooligan.
([26]) chính chuyên: Trọn vẹn tiết hạnh. | Chaste.
([27]) tứ đức 四德: Bốn nết của phụ nữ: công (giỏi việc nhà), dung (vẻ mặt hòa ái), ngôn (lời nói đứng đắn), hạnh (cử chỉ đoan trang). | The four virtues of a female: efficiency in housework, loveliness in countenance, propriety in speech, propriety in behaviour.
([28]) tùng ba: Tam tùng (tòng) 三從: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử. 在家從父,出嫁 從夫,夫死從子. Khi còn ở trong nhà thì theo cha, khi lấy chồng thì theo chồng, khi chồng chết thì theo con trai. | The three obediences for a female: obeying her father before marriage, her husband when married, and her sons in widowhood.
([29]) sanh sứa: Cũng như trở chứng (đổi ra tánh xấu). Văn liệu: “Chừng Thị Lựu có nghén con Quyên, chị ta sanh sứa, đòi cất nhà riêng mà ở.” (Hồ Biểu Chánh, Cha Con Nghĩa Nặng. 1929) || “Chuộng hư vinh, ham hư danh, tham tư lợi, ưa sắc dục, mê cờ bạc, vui rượu trà, ghiền thuốc phiện đều do nơi mất cái lẽ bình thường mà sanh sứa.” (Hoành Sơn, Đôi Lời Về Khổng Giáo Bàn Cùng Phan Khôi Tiên Sanh, đăng nhật báo Thần Chung. Sài Gòn 1930) || “Dè đâu, cuộc làm ăn vừa khá thì anh chồng biến chứng sanh sứa chuyện nọ kia, mèo mỡ bê tha...” (Vương Hồng Sển, Sài Gòn Năm Xưa. Sài Gòn 1960)
([30]) quê: Quê mùa, không sành điệu. | Unsophisticated.
([31]) thục nữ 淑女: Phụ nữ khôn ngoan, đức hạnh. | A wise and virtuous female.
([32]) thiền quyên 婵娟: Phụ nữ đẹp. | A beautiful female.
([33]) anh thư 英姐: Phụ nữ tài giỏi hơn người. | An outstanding female.
([34]) tiết liệt 節烈: Có lòng trinh bạch kiên cường. | Indomitably chaste
([35]) anh linh 英靈: Linh hồn bậc anh hùng liệt sĩ. | Soul of someone who died for his country.
([36]) vong bản: [a] 亡本: Mất gốc, không giữ được cội gốc của mình. | Losing one's roots or origin; deracinated. || [b] 忘本: quên nguồn gốc, không nhớ tới cội gốc của mình. | Forgetting one's roots or origin.
([37]) mẫn tuệ : Thông minh, thông tuệ. | Intelligent.
([38]) minh thệ 盟誓: Lời thề. | Oath; pledge; vow || Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày Thứ Năm 22 rạng Thứ Sáu 23-4-1926, Đức Chí Tôn dạy người nhập môn Cao Đài quỳ trước bàn thờ, xưng họ tên và minh thệ như sau: “Thề rằng từ đây biết một đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì thiên tru địa lục.”
([39]) tình đạo đồng: Tình đồng đạo (đồng đạo chi tình 同道之情), tình thân giữa những người cùng một tôn giáo. | Close relationship between coreligionists.
([40]) tu tánh (tính) 修性: Cultivating one’s innate nature. Xem bài Khái Niệm Về Tính Mệnh của Lê Anh Minh trong Đạo Uyển Xuân 2018, tr. 39-41.
([41]) luyện mạng (mệnh) 煉命: Tu mạng (mệnh) 修命. | Cultivating one’s life. || Văn liệu: Chỉ tu tánh bất tu mạng thử thị tu hành đệ nhất bệnh. 只修性不修命, 此是修行第一病. (Chỉ tu tánh mà không tu mạng là sai lầm hạng nhứt của việc tu luyện.) | Cultivating only innate nature without cultivating life, this is the first fault of refinement practice.
([42]) bực sáng: Bật sáng, bừng sáng. | Brightening up.
([43]) minh linh 明靈: Thông tuệ, sáng suốt khác thường. | Extraordinarily intelligent.
([44]) tự ti 自卑: Tự thấy mình thua kém người khác; cũng là mặc cảm tự ti. | Inferiority complex (người Hoa gọi là tự ti tình kết 自卑情結, tự ti cảm 自卑感).
([45]) lai vãng: Vãng lai 往來; qua lại, tới lui. | Frequently visiting a place or someone.
([46]) mặc cảm: Tức là mặc cảm tự ti (xem chú thích tự ti); đối nghịch với nó là mặc cảm tự tôn 優越情結 (ưu việt tình kết), 優越感 (ưu việt cảm), nghĩa là tự thấy mình vượt trội hơn người khác. | Superiority complex.
([47]) bạn tác 同齡人 (đồng linh nhân); 同輩 (đồng bối): Bạn cùng tuổi, cùng lứa. | Peer.
([48]) băng hoại 崩壞: Hư hỏng; đổ nát. | Breaking down.
([49]) ác cải tùng lương: Cải ác tùng (tòng) lương 改惡從良; sửa đổi hành vi xấu và đi theo đường lành. | Turning away from evil and following virtue.
([50]) quốc biến 國變: (Tình trạng) nước loạn. | The state’s disturbance.
([51]) Đạo: Người đạo Cao Đài. | Caodaists.
([52]) khắng khít: Khăng khít; có quan hệ gắn bó với nhau. | Closely attached to one another.
([53]) nghiệp lực 業力: Tác động của nghiệp (sinh ra quả lành và quả dữ). | The karma power (producing good and evil fruit).
([54]) hàn huyên 寒暄: Hỏi han khi gặp lại nhau. | Exchanging conventional greetings.
([55]) nghinh tiếp 迎接: Nghênh tiếp; Nghênh đón, đón tiếp. | Welcoming someone.
([56]) dư đồ 輿圖: Lãnh thổ, bờ cõi, cương thổ 疆土, cương vực 疆域. | Territory.
([57]) trước: Trước kia, xưa kia. | In former times.
([58]) hậu học 後學: Kẻ học trò đời sau này (lời tự xưng khiêm tốn). Trong bài thánh thi trên đây, hậu học có nghĩa là hậu nhân 後人 (người đời sau | the later generation), trái nghĩa với tiền nhân 前人 (người đời trước | the former generation). Trong bài thơ thất ngôn bát cú (luật bằng vần bằng) thì chữ thứ hai của câu thứ ba phải là thanh trắc, nên phải dùng chữ học thay cho chữ nhân (thanh bằng).
([59]) rước voi: Rước voi giày mã tổ (thành ngữ); đem quân đội nước ngoài vào tàn phá quê hương. | Bringing in elephants to trample down one’s ancestral tombs; turning to foreign invaders for support.
([60]) tiểu sanh (sinh) 小生: Kẻ học trò nhỏ này (lời tự xưng của người học trò). Trong bài thánh thi trên đây, tiểu sanh có nghĩa là tiểu nhân 小人 (những kẻ hèn hạ, đê hèn | vile people), trái nghĩa với chính nhân 正人 (những người ngay thẳng, cương trực | righteous people).
([61]) cõng rắn: Cõng rắn cắn gà nhà (thành ngữ); đem người bên ngoài vào giết hại người nhà. | Setting the fox to keep the geese.
([62]) lau ráo: Lau khô, lau cho hết. | Wiping off; wiping away.
([63]) cốt : Xương. | Bones.
([64]) quốc sĩ 國士: Người tài giỏi, danh tiếng của đất nước. | Eminent scholars of a country.
([65]) chính khí 正氣: Tính ngay thẳng và can đảm. | Righteous and courageous character.
([66]) năng hành: Luôn luôn vận hành; chuyển động không ngừng nghỉ. | Operating unceasingly.
([67]) tứ thời 四時: Bốn mùa. | The four seasons. || bát tiết 八節: Tám tiết tính theo khí hậu trong năm: Lập Xuân 立春, Lập Hạ 立夏, Lập Thu 立秋, Lập Đông 立冬, Xuân Phân 春分, Thu Phân 秋分, Hạ Chí 夏至, Đông Chí 冬至. | Beginning of Spring; Beginning of Summer; Beginning of Autumn; Beginning of Winter; Spring Equinox; Autumn Equinox; Summer Solstice; Winter Solstice.
([68]) tối linh : Hữu hiệu nhất, có hiệu quả nhất. | The most efficacious.
([69]) phổ cập 普及: Phổ biến 普遍; tới được khắp nơi. | Widespread.
([70]) kiến tạo 建造: Xây dựng. | Constructing, building.
([71]) dinh (doanh) hoàn : Thế gian, địa cầu. | The world; the globe; the earth.
([72]) Tổ Khiếu 祖竅 (Ancestral Cavity): Cũng gọi là Nê Huờn Cung 泥丸宮 (Mud Pellet Palace); Thượng Đơn Điền 上丹田 (Upper Elixir Field).
([73]) ma ha 摩訶; 麼賀: Lớn, nhiều | Great, numerous. || Bao trùm khắp nơi. | All pervading. || Bao quát tất cả. | All-embracing. || Vượt trội. | Surpassing. || Huyền diệu. | Mysterious. || Không thể nghĩ bàn được; bất khả tư nghị 不可思議. | Beyond comprehension. || Chỗ nào cũng có; vô sở bất tại. | Omnipresent.體無所不在.
Trong bài thánh thi ở trên, ma hanước ma ha, nước đạo pháp diệu huyền, mầu nhiệm (the maha water).
([74]) oan khiên 冤牽: Oan nghiệp 冤業, oan nghiệt 冤孽, những nợ nần, thù oán từ kiếp trước, sang kiếp này chúng đòi người mắc nợ phải trả. | Predestined enemy.
([75]) vị lai 未來: Chưa tới; tương lai. | Future.
([76]) phản bổn huờn nguyên 本還源: Trở về nguồn cội của mình là cõi trời. | Returning to one’s origin which is the heaven.
([77]) thanh thiếu niên 青少年: Lứa tuổi khoảng từ 13 tới 19. | Juveniles, adolescents, teenagers.
([78]) tế trí kỳ nghiêm 祭置其嚴: việc sắp đặt cúng kiếng phải trang nghiêm.
([79]) Thiên môn 天門: Cửa trời. | The Heaven’s gate.