ĐÀN
KHAI XUÂN NĂM XƯA
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài
Tuất thời, 01-01 Giáp Dần (Thứ
Tư 23-01-1974)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao
Đài Giáo Việt Nam
Pháp
Đàn: Huệ Chơn; Đồng Tử: Thanh
Thủy;
Độc
Giả: Hồng Mai;
Điển
Ký: Ngọc Kiều, Hồng Cẩm, Kim Nhung, Lập
Hạnh.
THI
HIỂN linh nhờ trước biết tu
hành
ĐẠO đức lập tâm bồi cội
phước
NHƠN tình thương kẻ lỡ đàng
quanh.
Chào chư Thiên ân
hướng đạo,([3]) chư đạo tâm lưỡng phái. Mừng các em đồng nhi, lễ sĩ. Mừng
hiền nương ([4]) Diệu
Hạnh.
Tệ Huynh rất mừng cho
các em đã chung tâm lo gìn giữ và phát triển họ đạo sở tại.([5]) Nhờ tâm thành của các em nên chư Thiên hộ pháp ([6]) đã
hộ trì ([7]) cho các em bằng cách rửa sạch, quét dọn rác rến, trở ngại
chung quanh.([8]) Các
em đã có một Ban Cai Quản lành mạnh thì còn lo gì không có ngày cùng toàn Đạo
trên đường phổ tế độ nhơn.([9])
THI
Xuân đến nỗi lòng đạo chứa
chan
Xuân tâm, xuân hạnh đức huy hoàng
Trời xuân dầu có bao thay đổi
Thượng Đế hồng ân vẫn bố ban.
Còn thằng Tôn, cháu
được như vậy Bác mừng.
THIÊN LA ĐẠO NHƠN
Tệ Huynh xin chào chư
Thiên ân hướng đạo. Mừng các em đạo hữu địa phương.
Nhân dịp đầu xuân Giáp
Dần, Tệ Huynh đến trước để báo tin có Đức Lê Đại Tiên giáng. Trong lúc chờ đợi,
Tệ Huynh cần có vài điều đạo sự muốn hàn huyên, dặn dò các
em đạo hữu địa phương. Vậy Tệ Huynh xin thỉnh chư Thiên ân hướng đạo và các em
đồng an tọa.
Hỡi
các em!
PHÚ LỐI
VĂN
Giáp Dần là năm mở đầu
Người tu hành phải cố gắng
bền lòng,
Giữ hạnh đạo và bồi công lập
đức.
Cảnh Tiên tục tuy nay xa
cách,
Nhưng tình đệ huynh vẫn như
tự thuở nào,
Hễ mỗi lần có dịp gặp nhau,
Em còn nhớ các thời kỳ chuyển
biến,
Đất nước này lắm lúc đổi
thay,
Từ thôn dã
đến ngay thành thị.
Nếp thanh bình đảo lộn khắp
nơi nơi,
Xã hội này tan tác tả tơi,
Từ tập tục cho đến thói đời
cũng đổi.
Nào địa vị, nào tiền tài lắm
kẻ!
Kẻ khốn nàn kêu có vọng đến
Trời cao?
Người đói khổ thét gào không
thấu Chúa!
Bên cạnh người thiếu áo thiếu
cơm.
Dưới quần túm, đầu chơm bơm
tai tóc.
Gái trang sức hở hang cạnh
góc,
Còn đâu nào vóc ngọc thân
ngà!
Lại bình quyền má tựa môi kề,
Trà, rượu, thuốc, ô kê, thôi
đủ thứ.
Nào đức hạnh đâu còn gìn giữ,
Chỉ biết có bạc tiền là trên
hết.
Mẹ Tổ Quốc đang trên giường
giãy chết,
Bịnh lâu năm sức kiệt thân
mòn.
Chỉ trông nhờ cậy ở đàn con,
Ôi thanh thiếu! Ôi mầm non!
Ôi hy vọng!
Các em muốn sống một cuộc đời
đáng sống,
Đừng chạy theo cái bóng mà
buông hình,
May phước gặp Đạo Trời khai
sáng,
Học cho thông và ráng tu hành,
Trước vẹn phần thế đạo thân sanh,
Tu phải thông luật lệ quy
điều,
Nghèo không trách, đừng kiêu
khi khá giả.
Nên cần kiệm để góp phần công
quả,
Nên khoan dung mà hỷ xả cho
nhau,
Lựa lời nói nhã nhặn ngọt
ngào,
Tiếng độc ác mau mau chừa
tránh.
Tu tánh thuần, đức hạnh mới
cao,
Phật Tiên xưa cũng thế chớ
khác nào,
Tánh mà được hồn nhiên bình
thản,
Phát điển quang bao phủ quanh
mình,
Làm cái vỏ vô hình bảo vệ.
Các thời cúng mõ chuông kinh
kệ,
Phải thành tâm hiến lễ nghiêm
trang,
Đừng miệng thì đọc rót oang
oang,
Tâm phóng ngoại cả ngàn cây
số.
Kềm tâm tánh hướng về một
chỗ,
Tai lóng nghe cho rõ tiếng
kinh,
Thân quỳ
ngay, chẳng chút nghiêng chinh,
Hai mắt đứng chú nhìn Thiên Nhãn.
Sự nghèo giàu do nơi số mạng,
Cúng hành hương nhiều ít hơn
thua,
Nào phải chỗ bán mua mà so
sánh!
Xa Phật Tiên Thần Thánh, xa
Trời.
Rồi gần đời lại nhiễm thói
đời,
Thánh thất dùng để làm nơi
truyền giáo,
Tháng đôi lần giảng đạo
thuyết kinh,
Dạy tu hành cho cả nhơn sanh,
Phật ngày trước dưới cội bồ đề giảng dạy,
Nào có đâu thánh thất, thánh đường,
Cũng chẳng có hành
hương nhiều ít.
Càng lo tu trước giúp ích cho
mình,
Cho nạn tai sớm được giảm
khinh,
Đầu năm mới có mấy dòng
khuyên giảng,
Dạy các em cố ráng tu hành.
(...)
Nãy
giờ đã luận đàm nhiều quá,
Thương các em khuyên khá nhiều lời.
Ráng ở
sao cho thuận lòng Trời,
Và thuận thảo với mọi người tại thế.
Huynh cầu nguyện Chí Tôn Thượng Đế,
Ban ơn lành lớn bé trẻ già,
Cho tai nạn thoát qua không còn nữa.
Kìa Đức Lê Đại Tiên
vừa đến. Tệ Huynh xin giã từ tất cả. Hẹn một dịp khác sẽ hàn huyên ([54]) nữa. Xin thành tâm nghinh tiếp.([55])
Thăng.
THI
ĐẠI TIÊN LÊ VĂN DUYỆT
Lão mừng chư hiền đệ,
hiền muội. Đầu xuân Giáp Dần, thừa lịnh Tòa Tam Giáo, Lão giáng trần trước để
khai xuân cho thánh tịnh Ngọc Minh Đài, sau ban ơn và chúc lành cho chư hiền
đệ, hiền muội. Vậy, Lão miễn lễ, chư hiền đồng an tọa.
Này chư hiền đệ, hiền
muội! Thiên địa năng hành,([66]) bốn mùa tám tiết ([67]) không một giây phút nào ngừng nghỉ. Vạn vật nhờ đó mà sanh
trưởng phát triển điều hòa, thảo mộc nhờ đó mà trổ lá kết hoa, thú cầm nhờ đó
mà sanh sôi nẩy nở, v.v...
Vạn vật có sinh tồn là
nhờ biết giao cảm được với lẽ vận hành của trời đất mà hòa
mình cùng thiên địa. Con người là vật tối linh ([68]) đã được trực tiếp thọ nhận ân điển từ nơi Thượng Đế và có
thể thay Trời đem ánh sáng đạo lý phổ cập ([69]) khắp trần gian, kiến tạo ([70]) cõi
dinh hoàn ([71]) nơi
nầy nên đời thượng nguơn thánh đức.
Lão mừng thấy chư hiền
đệ đã ý thức được cái chơn lý ấy mà chịu khép mình trong cửa đạo, trau sửa thân
tâm để trở thành hiền nhân, thánh triết.
Đầu năm mới, Lão chúc
mừng chư hiền đệ, hiền muội:
THI
Ánh sáng thiên xuân bủa khắp
tràn
Phép báu gội nhuần, thể phách an
Nhẹ mình trỗi bước đường
thiên lý
Lão chúc mừng Đầu Họ
Đạo và Ban Cai Quản Ngọc Minh Đài.
THI
Cầm đuốc từ bi rọi chỉ đường
Dắt dìu khách tục khắp muôn phương
Đói no chẳng quản chung tay gánh
Thiếu đủ không sờn tự đảm đương
Gióng trống Lôi Âm truyền chánh giáo
Hồi chuông Bạch Ngọc Đạo hoằng dương
Nếu chưa đắc quả thành Tiên Phật
Cũng được Thánh Nhân ở thế đường.
(…)
Thi
Lễ là trật tự nhạc hòa tâm
Hợp xướng đồng nhi nhịp vững cầm
Ban ơn các trẻ buổi đầu năm.
(…)
Lão ban ơn lành cho chư hiền
đệ, hiền muội hiện diện hôm nay.
Thi
Một năm vui đạo, một năm tròn
Lập đức vun bồi cội nước non
Hướng đạo hòa mình cùng đại chúng
Thăng.
([1]) thế sự 世事: Việc đời; việc trên đời; việc trần tục. | Secular affairs; worldly affairs.
([2]) Hiển Thế Đạo Nhơn 顯世道人: Thế danh là Phan
Văn Thanh (1890-1950). Sinh thời, tiền bối hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh
Đài (đường Nguyễn Khoái, quận 4). Vì trót phạm lỗi lầm nên sau khi thoát xác
tiền bối phải chịu đầu thai làm quái nhân trong sáu năm để đền tội xưa. May được
bá tánh xót thương bố thí nên trong sáu năm làm quái nhân, tiền bối đã giúp
song thân thoát cảnh cơ hàn và xây chùa làm nơi lánh đục tầm trong. Nhờ công
quả trợ giúp mẹ cha trong việc xây dựng sự nghiệp đạo đức này, tiền bối trả
xong nợ tiền khiên, mãn kiếp được trở về cung Thái Ất tịnh luyện trong chín
năm, đắc vị Hiển Thế Đạo Nhơn. Tiền bối giáng cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài
ngày 10-5 Ất Tỵ (Thứ Tư 09-6-1965) kể lại ngọn ngành việc trả quả trong sáu năm
ấy. Xem: Diệu Nguyên, Câu Chuyện Đức Tin.
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012, tr. 23-25. Quyển 25-3 trong Chương Trình Chung Tay
Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
([28]) tùng ba: Tam tùng (tòng) 三從: Tại
gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử. 在家從父,出嫁 從夫,夫死從子. Khi còn ở trong nhà thì theo cha,
khi lấy chồng thì theo chồng, khi chồng chết thì theo con trai. | The three obediences for a female: obeying her
father before marriage, her husband when married, and her sons in widowhood.
([29]) sanh sứa: Cũng như trở chứng (đổi ra tánh xấu). Văn liệu: “Chừng Thị Lựu có nghén con
Quyên, chị ta sanh sứa, đòi cất nhà
riêng mà ở.” (Hồ Biểu Chánh, Cha Con
Nghĩa Nặng. 1929) || “Chuộng hư vinh, ham hư danh, tham tư lợi, ưa sắc dục,
mê cờ bạc, vui rượu trà, ghiền thuốc phiện đều do nơi mất cái lẽ bình thường mà
sanh sứa.” (Hoành Sơn, Đôi Lời Về Khổng Giáo Bàn Cùng Phan Khôi
Tiên Sanh, đăng nhật báo Thần Chung. Sài
Gòn 1930) || “Dè đâu, cuộc làm ăn vừa khá thì anh chồng biến chứng sanh sứa chuyện nọ kia, mèo mỡ bê
tha...” (Vương Hồng Sển, Sài Gòn Năm Xưa.
Sài Gòn 1960)
([38]) minh thệ 盟誓: Lời thề. | Oath;
pledge; vow || Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày
Thứ Năm 22 rạng Thứ Sáu 23-4-1926, Đức Chí Tôn dạy người nhập môn Cao Đài quỳ
trước bàn thờ, xưng họ tên và minh thệ như sau: “Thề rằng từ đây biết một đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng,
hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì thiên tru địa
lục.”
([41]) luyện mạng (mệnh) 煉命: Tu mạng (mệnh) 修命. | Cultivating
one’s life. || Văn liệu: Chỉ tu tánh
bất tu mạng thử thị tu hành đệ nhất bệnh. 只修性不修命,
此是修行第一病. (Chỉ tu tánh mà không tu mạng là sai lầm
hạng nhứt của việc tu luyện.) | Cultivating
only innate nature without cultivating life, this is the first fault of
refinement practice.
([58]) hậu học 後學: Kẻ học
trò đời sau này (lời tự xưng khiêm tốn). Trong bài thánh thi trên đây, hậu học có nghĩa là hậu nhân 後人 (người đời sau | the later generation), trái nghĩa với tiền nhân 前人 (người đời trước | the former generation). Trong bài thơ thất ngôn bát cú (luật
bằng vần bằng) thì chữ thứ hai của câu thứ ba phải là thanh trắc, nên phải dùng
chữ học thay cho chữ nhân (thanh bằng).
([67]) tứ thời 四時: Bốn
mùa. | The four seasons. || bát tiết 八節: Tám tiết tính theo khí hậu trong năm: Lập
Xuân 立春, Lập Hạ 立夏, Lập Thu 立秋, Lập Đông 立冬, Xuân Phân 春分, Thu Phân 秋分, Hạ Chí 夏至, Đông Chí 冬至. | Beginning
of Spring; Beginning of Summer; Beginning of Autumn; Beginning of Winter;
Spring Equinox; Autumn Equinox; Summer Solstice; Winter Solstice.
([73]) ma ha 摩訶; 麼賀: Lớn, nhiều | Great,
numerous. || Bao trùm khắp nơi. | All
pervading. || Bao quát tất cả. | All-embracing.
|| Vượt trội. | Surpassing. || Huyền
diệu. | Mysterious. || Không thể nghĩ
bàn được; bất khả tư nghị 不可思議. | Beyond comprehension. || Chỗ nào cũng
có; vô sở bất tại. | Omnipresent.體無所不在.
Trong
bài thánh thi ở trên, ma ha là nước ma ha, nước đạo pháp diệu huyền,
mầu nhiệm (the maha water).