TÓC
XANH MẤY MÙA
LÊ
ANH MINH
I. Người xưa
nói: Nhân sinh nhất thế, thảo sinh nhất
xuân. 人生一世, 草生一春. (Người sống một đời, cỏ sống một mùa xuân). Đại ý: Sinh
vật sống lâu dài, ngắn ngủi khác nhau; nhưng cũng chỉ một đời.
Thế 世 là đời. Theo Thiệu Khang Tiết 邵康節, một thế là ba mươi năm (tam thập niên vi nhất thế 三十年為一世),([1]) cho nên chữ thế
世 cũng viết là ba chữ thập 十 liền nhau: 丗, 卋. Thế 世 viết theo lối triện là chữ chỉ 止 (dừng lại) mà phía trên
là ba chữ thập , ý nói ba mươi tuổi ([2]) thì dừng lại được rồi. Nhưng
dừng như vậy thì sớm quá; Đức Khổng Tử nói “tam
thập nhi lập” 三十而立 (tuổi
ba mươi vững vàng),([3]) thì đời ắt còn dài.
Thông thường,
đời người được xem là trăm năm: Nhân sinh
dĩ bách tuế vi kỳ. 人生以百歲為期. (Đời người lấy
trăm năm làm kỳ hạn.) Chữ kỳ 期 ở đây là kỳ hạn,
cũng là kỳ vọng. Nhưng thời xưa ít ai
đạt tới ngưỡng đó; nên Đỗ Phủ 杜甫 (712-770) nói: Nhân sinh thất thập cổ lai hy. 人生七十古來稀. (Đời người bảy mươi năm, xưa nay hiếm.) Nói nôm na là “hạn
dùng” mong đợi là trăm năm, nhưng thường tới bảy mươi là hết “đát” (date).
Người già
(lão nhân 老人, kỳ lão 耆老, mạo điệt 耄耋) gọi cụ thể là: điệt
耋 (bảy mươi tuổi), mạo 耄 (tám mươi, chín mươi tuổi), kỳ
di 期頤 (trên trăm tuổi).
Gọi kỳ di, vì kỳ 期 là mong đợi (kỳ vọng), di 頤 là chăm sóc. Người ở tuổi này không tự chăm sóc được bản thân nên
mong nhờ được người khác giúp đỡ; nếu không có người thân thì phải vào nhà dưỡng
lão.
Thời xưa
gọi đàn ông sống lâu là thọ 壽, gọi phụ nữ sống lâu là phúc 福; nên nói phúc thọ song toàn 福壽雙全 (cụ bà và cụ ông cùng sống lâu, bách niên giai lão 百年偕老). Về sau hiểu đại khái là đa phúc đa thọ 多福多壽 hay hạnh phúc trường thọ
幸福長壽.
Dân gian
tính tuổi theo mười năm, gọi là tuần 旬. Tuần là mười
ngày; một tháng có ba tuần (thượng tuần, trung tuần, hạ tuần). Tính tuổi thì tuần là mười năm, do đó: bốn mươi tuổi là tứ tuần 四旬; năm mươi tuổi
là ngũ tuần 五旬; sáu mươi tuổi là lục
tuần 六旬; bảy mươi tuổi
là thất tuần 七旬; tám mươi tuổi là
bát tuần 八旬, v.v… Cụ già
tám mươi tuổi gọi là bát tuần lão nhân 八旬老人.
Đức Khổng
Tử (551-479 trước Công Nguyên) thọ bảy mươi ba tuổi ta (bảy mươi hai tuổi tây).
Ngài tự thuật:
Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập
nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập
nhi tòng tâm sở dục, bất du củ. (Luận Ngữ: Vi Chính, 4)
吾十有五而志於學, 三十而立, 四十而不惑, 五十而知天命, 六十而耳順, 七十而從心所欲不踰矩.
(Ta mười
lăm tuổi dốc lòng học tập; ba mươi tuổi thì vững vàng; bốn mươi tuổi không còn
nghi ngờ; năm mươi tuổi biết mệnh Trời; sáu mươi tuổi nghe ai nói thì phân biện
được thật hay giả, đúng hay sai; bảy mươi tuổi cứ tùy ý mà làm nhưng không vượt
ra ngoài phép tắc.)
Dựa theo tự
thuật dẫn trên, muốn nói tuổi ta cho văn vẻ thì mượn lời Đức Khổng: ba mươi là
tuổi nhi lập 而立; bốn mươi là tuổi bất
hoặc 不惑; năm mươi là tuổi
tri thiên mệnh 知天命; sáu mươi là tuổi nhĩ
thuận 耳順; bảy mươi là tuổi
bất du củ 不踰矩.
Nói về tuổi,
còn có các cách hoa mỹ như sau:
1. Lúc chẵn
sáu mươi tuổi ta (năm mươi chín tuổi tây) thì nói là tròn hoa
giáp.
Hoa giáp 花甲 là chu kỳ sáu mươi năm kết hợp thập thiên can 十天干 (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) với thập nhị địa chi 十二地支 hay mười hai con giáp (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Thí dụ: Người sinh năm 1924 (Giáp Tý) tới năm 1983
(Quý Hợi) thì tròn sáu mươi tuổi ta; khi ấy, thập thiên can đi được sáu vòng (từ
Giáp tới Quý: 6 x 10 = 60); thập nhị địa chi đi được năm vòng (từ Tý tới Hợi: 5
x 12 = 60). Có ý kiến giải thích rằng khi nói hoa giáp, thì giáp liên
quan mười hai con giáp; hoa ám chỉ
mùa hoa nở, và một mùa hoa là một năm.
2. Sáu
mươi mốt tuổi gọi là hoa thọ 華壽.
Chữ hoa 華 chiết tự gồm 艹 (song thập: 2 x 10 = 20) và 一 (nhất: 1) cộng
thêm 4 chữ 十 (tứ thập: 4 x 10 = 40); tức là 20 + 1 + 40 = 61.
3. Sáu
mươi bốn tuổi gọi là phá qua 破瓜.
Chữ qua 瓜 chẻ đôi (phá qua) thành
八八, tức là: bát bát (8 x 8 = 64); cũng tính là 二八 (nhị bát: 2 x 8 = 16) để gọi thiếu nữ đôi tám
xuân xanh. Thơ xưa có câu: Nhị bát giai
nhân thể tự tô. 二八佳人體似酥. (Gái xinh mười
sáu tuổi thân thể nõn nà.)
4. Thọ bảy
mươi bảy tuổi gọi là hỷ thọ 喜壽.
Chữ hỷ 喜 viết lối thảo gần như là 七十七, tức là: thất thập (7 x
10 = 70) + thất (7) = 77.
5. Thọ tám
mươi tám tuổi gọi là mễ thọ 米壽.
Chữ mễ 米 chiết tự gồm 八十八, tức là: bát thập (8 x
10) + bát (8) = 88.
6. Thọ chín
mươi tuổi gọi là tốt thọ 卒壽.
Chữ tốt 卒 viết tắt là 卆 , gồm 九十, tức là: cửu thập (9 x 10) = 90.
7. Thọ chín
mươi chín tuổi gọi là bạch thọ 白壽.
Chữ bạch 白 là chữ bách 百 (100) bỏ nét 一 (nhất: 1), tức là 100 – 1 = 99.
Hai chữ 白 [bái] và 百 [bǎi] nói theo giọng phổ thông nghe na ná nhau.
8. Thọ một
trăm lẻ tám tuổi gọi là trà thọ 茶壽.
Chữ trà 茶 chiết tự gồm 艹 八十八 , tức là: song thập
(2 x 10 = 20) + bát thập (8 x 10 = 80) + bát (8) = 108.
9. Thọ một
trăm mười một tuổi gọi là hoàng
thọ 皇壽 hay xuyên thọ 川壽.
Chữ hoàng 皇 chiết tự gồm 白一十一 ; tức là: bạch nhất (chữ bạch 白 thêm chữ nhất一 trên đầu
thành chữ bách 百: 100) + thập
(10) + nhất (1) = 111.
Chữ xuyên 川 nhìn y hệt con số 111.
10. Thọ một
trăm mười chín tuổi gọi là ngoan thọ
頑 壽.
Chữ ngoan 頑 chiết tự gồm 二八百一八, tức là:
nhị (2) + bát (8) + bách (100) + nhất (1) + bát (8) = 119.
11. Thọ một
trăm hai mươi chín tuổi gọi là tích
thọ 昔壽.
Chữ tích 昔 chiết tự gồm 艹 百, tức là: song thập (2 x 10 = 10) + bách (100) = 120.
II. 1. Kiếp sống vạn vật vốn hữu hạn, vô thường. Thọ yểu cũng tùy loài.
Như con phù du 蜉蝣 (mayfly; tên khoa học: Ephemeroptera), đời quá ngắn, khiến nhiều
người so sánh mà buồn:
Đời người như bóng phù du
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
(Nguyễn Đình
Chiểu, Lục Vân Tiên)
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
(Cao Bá Quát)
Nhân sanh dị tử, nãi viết phù du tại thế.
人生易死, 乃曰蜉蝣在世.
Mạng người dễ
chết, nên nói là phù du trên đời.
(Ấu Học Quỳnh Lâm 幼學瓊林)
2. Trang Tử Nam Hoa Kinh (Tiêu Dao Du) nhắc đến tuổi đời mấy loài
không biết có thật hay không: Loài nấm chỉ
sống trọn một buổi sáng thì không biết sự
khác biệt giữa mùa xuân và mùa thu. Đó là những thứ có đời sống ngắn ngủi.
Miền nam nước Sở có cây minh linh 冥 靈, mùa
xuân của nó dài năm trăm năm, mùa thu của nó dài năm trăm năm; thời xa xưa có
cây xuân 椿 lớn, mùa xuân của nó dài ngàn năm, mùa thu của nó dài
ngàn năm. Đó là những thứ có đời sống dài.
3. Sống lâu
bảy trăm năm thì theo truyền thuyết chỉ có Bành Tổ thôi, còn người phàm hiếm
khi quá trăm năm. Mỗi năm thấy già thì buồn:
- Mỗi năm một tuổi, nó đuổi xuân đi.
- Đời người thấm thoát có bao lâu
Mới thấy tóc xanh đã bạc đầu.
- Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
朝 如 青 絲, 暮 成 雪.
Sáng sớm như
tơ xanh, chiều như tuyết.
(Lý Bạch, Thương Tiến Tửu 將 進 酒)
4. Ai cũng
mong trẻ mãi, nên đa số thấy mình bạc đầu thì buồn giận. Có người lạc quan thì
thấy già nên vui, vì mình tuổi cao, nghĩa là sống thọ:
Nhân kiến bạch đầu sân / Ngã kiến bạch đầu hỷ.
人 見 白 頭 嗔 / 我 見 白 頭 喜.
(Người thấy bạc
đầu thì giận / Ta thấy bạc đầu thì vui.)
Vui vì
may mắn hơn nhiều người chết trẻ:
Đa thiểu thiếu niên vong / Bất đáo bạch đầu tử.
多 少 少 年 亡 / 不 到 白 頭 死.
(Nhiều người
trẻ không còn / Chưa bạc đầu đã chết.)
5. Đời người
vốn hữu hạn mà thói đời lại thích lo việc ngàn năm, thật là vô ích:
Sinh niên bất mãn bách / Thường hoài thiên tuế ưu.
生 年 不 滿 百 / 常 懷 千 歲 憂.
(Sống chẳng đầy
trăm năm / Thường ôm sầu ngàn năm.)
Nói trăm
năm tưởng lâu, quay đi ngó lại tóc xanh thành tóc bạc:
Bạch phát bất tùy lão nhân khứ
Khán lai hựu thị bạch đầu ông.
白 髮 不 隨 老 人 去 / 看 來 又 是 白 頭 翁.
(Tóc bạc
không đi theo ý người già
Xem qua ngó lại
chính là ông đầu bạc.)
6. Khi tuổi
chiều tàn xế bóng, điều ta hối tiếc nhất là để tuổi trẻ trôi qua hoang phí. Đời
người hữu hạn, thời gian trôi qua nhanh như tên bay, tóc xanh sớm bạc, cho nên
phải quý tuổi trẻ, phấn đấu học tập, lập sự nghiệp, kẻo cái già sồng sộc sau
lưng.
Chu Hy 朱熹 (1130-1200) đời
Tống từng nói:
Thiếu niên dị lão học nan thành
Nhất thốn quang âm bất khả khinh
Vị giác trì đường xuân thảo mộng
Giai tiền ngô diệp dĩ thu thanh.
少 年 易 老 學 難 成 / 一 寸 光 陰 不 可 輕
未 覺 池 塘 春 草 夢 / 階 前 梧 葉 已 秋 聲
(Trẻ dễ
mau già, học khó thành
Một tấc thời
gian không thể khinh
Chưa cảm giấc
mộng của cỏ mùa xuân bên bờ ao
Tiếng thu đã về
với xác lá ngô đồng trước thềm.)
Nhà thư
pháp Nhan Chân Khanh 顏真卿 (709-785) đời
Đường viết bài Khuyến Học 勸學 như sau:
Tam canh đăng hỏa ngũ canh kê
Chính thị nam nhi độc thư thì
Hắc phát bất tri cần học tảo
Bạch thủ phương hối độc thư trì.
三 更 燈 火 五 更 雞 / 正 是 男 兒 讀 書 時
黑 發 不 知 勤 學 早 / 白 首 方 悔 讀 書 遲
(Canh ba
thắp đèn đến canh năm gà gáy
Là lúc nam nhi
đọc sách
Khi tóc đen
không biết sớm học
Lúc đầu bạc mới
hối hận đọc sách muộn.)
7. Đó là nói
về mặt đời, còn về mặt đạo, già hay trẻ nếu không học đạo thì cũng uổng phí kiếp
người, cho nên người xưa đã khuyên:
Mạc đãi lão lai phương học đạo
Cô phần đa thị thiếu niên nhân.
莫 待 老 來 方 學 道 / 孤 墳 多 是 少 年 人
(Chớ đợi
đến già mới học đạo
Mồ hoang lắm kẻ
tuổi còn xanh.)
LÊ ANH MINH
Bà Chiểu, 27-01-2021
([3]) Luận Ngữ: Vi Chính 為政, 4.