Bản thảo giáo khoa Cao Đài
Trong đạo Cao Đài hiện nay
đang có nhu cầu biên soạn các bài giảng về kinh cúng, giáo lý căn bản, v.v… ngõ
hầu triển khai trong các khóa học được tổ chức tại các Hội Thánh, thánh thất,
thánh tịnh, học viện, v.v… Mục BẢN THẢO GIÁO KHOA CAO ĐÀI mở ra nhằm dần dần
đáp ứng chút ít tài liệu tham khảo, ước mong góp phần bé mọn để quý đạo hữu
giảng viên có thể nhẹ bớt phần nào “gánh nặng” trong muôn một.
Việc đăng bài nơi đây sẽ tùy
duyên, nghĩa là trong khả năng hạn hẹp, hễ có được bài giảng nào thì phổ biến
bài đó. Biển học vô bờ. Chúng tôi kính mong và tin tưởng quý đạo hữu luôn hoan
hỷ lượng thứ mọi nhầm lẫn, thiếu sót nếu chúng tôi vướng phải, và sẽ vui lòng
chỉ giáo để chúng tôi kịp thời sửa chữa chỗ sai lầm, bổ túc chỗ thiếu sót. Gọi
mục này là “Bản thảo giáo khoa” cũng vì lẽ ấy. (H.Kh.)
KHÁI
LƯỢC LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI
HUỆ KHẢI
I. VÌ SAO VIỆT
1. Sử quan Cao Đài chia lịch sử
triết giáo của nhân loại ra ba thời kỳ lớn
- Nhứt Kỳ Phổ Độ: Từ thượng cổ tới khoảng giữa
thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), tức khoảng năm 650 TCN.
- Nhị Kỳ Phổ Độ: Từ khoảng giữa thế kỷ 7
TCN tới khoảng giữa thế kỷ 19 (khoảng năm 650 TCN tới khoảng năm 1850).
Hai thời kỳ này là Nhất tán vạn; tức là “Từ
nguồn gốc Đại Đạo phát sinh Tam Giáo Đạo”.
Tam Kỳ Phổ Độ: Khởi đầu vào khoảng giữa thế kỷ
19. Thời kỳ này là Vạn quy nhất; tức là “Từ Tam
Giáo Đạo trở về nguồn gốc Đại Đạo”. Đạo Cao Đài ra đời trong Kỳ Ba làm động lực
vận chuyển cho “Vạn quy nhất”; Việt Nam là đất nước thích hợp để làm cái nôi
cho đạo Cao Đài.([1])
Hai chiều vận động của Đạo:
A: Nhất tán vạn. Từ nguồn gốc Đại Đạo phát sinh Tam Giáo Đạo.
B: Vạn quy nhất. Từ Tam Giáo Đạo trở về nguồn gốc Đại Đạo.
2. Lý do Đức Chí Tôn chọn Việt
2.1. Lịch sử triết giáo Việt
2.1.1. Từ đầu Công Nguyên
đến thế kỷ 19: Tam Giáo (Nho, Lão, Thích) là ba dòng chủ lưu (mainstreams) tại Việt Nam.([2]) Từ thế kỷ 16 trở đi, Việt Nam có thêm dòng
chủ lưu thứ tư là đạo Chúa (đạo Gia Tô, Công Giáo).([3])
Đức Thượng Đế mượn các giáo sĩ thừa sai Công Giáo (apostolic missionaries) ban cho dân tộc Việt Nam món quà vô giá là
chữ quốc ngữ; nhờ vậy, đạo Cao Đài ra đời thì có sẵn chữ quốc ngữ này làm linh
ngữ (sacred language) để truyền đạo
Cao Đài, cũng như xưa kia là chữ Nho (với đạo Khổng, đạo Lão); chữ Sanskrit,
Pali (với đạo Phật); chữ Hebrew, Hy Lạp, Latin (với đạo Chúa).
2.1.2. Từ thế kỷ 20 trở đi:
Việt
II. VÌ SAO
Trong chuyên khảo Peasant
Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet
Nam (Chánh Trị Nông Dân Và Giáo Phái: Nông Dân Và Thầy Tu Trong Đạo Cao Đài
Ở Việt
Căn cứ theo “Số ước
lượng tín đồ Cao Đài do Thống Đốc
Tại sao đạo Cao Đài lại ra đời ở Nam Kỳ ([5]) và lớn mạnh mau lẹ ở Nam
Kỳ vào đầu thế kỷ 20 chứ không phải là một miền đất khác, và vào một thời gian
khác?
Có ít nhất hai yếu tố rất quan trọng giúp giải đáp câu hỏi
trên, đó là: Nam Kỳ có (a) một tiền đề
văn hóa và (b) một tiền đề pháp lý thích hợp để mở đạo
Cao Đài.
1. Tiền đề văn hóa của
1.1. Tính mở của địa
lý thiên nhiên
1.1.1. Ở ngã tư đường của các
cư dân và các nền văn hóa, văn minh, Nam Kỳ là vị trí hội tụ các luồng văn hóa
Đông Tây, một giao điểm động, thoáng, và mở.
1.1.2. Sông ngòi, kênh rạch ở
Nam Kỳ nhiều và chằng chịt. Có những sông đổ ra biển Đông, có sông đổ ra vịnh
Thái Lan ở phía Tây. Những sông đó lại được các con kênh nối với nhau, như thể
nối nước chảy về bên Đông với nước chảy về bên Tây.
1.2. Tính mở và động
của làng
1.2.1. Tính mở: Làng Nam
Kỳ lập dọc theo các tuyến sông rạch; hoặc ở nơi vàm sông, ở chỗ giáp nước (nơi
hai dòng nước do tác động của thủy triều gặp nhau); hoặc chạy dài theo trục lộ;
không có lũy tre bao quanh nên không cách bức với các làng khác như ở Bắc Kỳ.
Làng Nam Kỳ hình thành và phát triển ngắn hơn làng Bắc và Trung, không có những
hương ước, lệ làng chặt chẽ như ở Bắc và Trung.
1.2.2. Tính động:
1.2.3. Hệ
quả tính mở và tính động: Người dân Nam Kỳ có đầu óc cởi mở, sẵn
sàng tiếp thu tôn giáo mới như đạo Cao Đài.
1.3. Tính đa dân tộc
và đa tín ngưỡng của đất
1.3.1. Tính đa dân tộc:
Ở Nam Kỳ, ngoài người Việt (Kinh) và Hoa (Hán) ra, có bảy dân tộc khác như sau:
Khơ-me (Khmer), Cơ Ho (K’Ho), Chăm (Chàm), Mnông, Xtiêng (Stieng), Mạ và Chu
Ru.
1.3.2. Tính đa tín ngưỡng:
Tính đa dân tộc của Nam Kỳ ắt đưa đến tính đa tín ngưỡng.
1.3.3. Hệ quả
tính đa dân tộc và đa tín ngưỡng: Nam Kỳ có xu thế văn hóa
đa hệ, không hề dị ứng với một tôn giáo tổng hợp như Cao Đài.
1.4. Cá tính người dân
Hệ quả: Trong buổi sơ khai và trong
suốt quá trình gầy dựng, dù bị cường quyền đàn áp, đông đảo người dân Nam Kỳ
vẫn theo đạo Cao Đài. Đạo mới lập, không có nơi thờ cúng, người dân hiến nhà,
hiến đất, hiến ruộng hương hỏa để cất thánh thất.
1.5. Nhu cầu tâm linh của người
dân Nam Kỳ: Bà Werner xác định có một khoảng trống lớn về ý thức hệ ở Nam
Kỳ trước khi đạo Cao Đài ra đời: “Đạo
Phật và Khổng suy thoái, để lại một khoảng trống văn hóa thuận lợi cho việc
sáng lập các giáo thuyết mới nhắm vào mục đích khôi phục nền văn hóa Việt Nam.”
[Werner 1981: 56]
Khoảng trống ý thức hệ này là do đất nước bị thực dân Pháp
xâm chiếm, biến Nam Kỳ thành thuộc địa. Bà Werner viết: “(S)au khi Pháp xâm chiếm, đạo Khổng và Phật đã suy thoái. Các thầy tu
có học thức của Phật và Lão thực tế đã không có mặt ở
Hệ quả: Khi chỉ ra khoảng trống ý
thức hệ ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20, bà Werner giải thích vì sao đạo Cao Đài có
sức thu hút mạnh mẽ người dân Nam Kỳ: “Quả
thật, trong một mức độ nào đó, đạo Cao Đài có thể được coi là một nỗ lực nhằm
trả lại sinh lực cho đạo Phật – các thầy tu đứng đầu trong đạo Phật, Lão và các
chi Minh [Minh Sư, Minh Đường, Minh Tân, Minh Thiện] đã quy tụ về đạo Cao Đài khi đạo này mới được thành lập. Trước khi các
thánh thất được xây dựng, những người khai đạo Cao Đài cũng dùng các chùa Phật
để hành lễ khắp cả Nam Kỳ, và một số các nhà sư đứng đầu các chùa ấy đã theo
đạo Cao Đài. Trong các vùng ảnh hưởng của đạo Cao Đài, người ta biết rằng đông
đảo Phật tử các chùa ấy đã nhập môn tập thể theo Cao Đài.” [Werner 1981:
13]
2. Tiền đề pháp lý của
2.1. Thuộc địa
05-6-1862
(09-5 Nhâm Tuất): Triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất với Pháp và Tây Ban Nha
tại Sài Gòn.
Theo hòa ước này, ba tỉnh Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa, và đảo Côn Lôn trở thành thuộc địa của Pháp.
21-12-1864: Thống Đốc Nam Kỳ De la
Grandière công bố luật pháp của nước Pháp sẽ áp dụng ở ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, và đảo Côn
Lôn.
Cuối
tháng 6-1867: Pháp chiếm nốt ba tỉnh Vĩnh Long,
An Giang, và Hà Tiên.
25-6-1867: Thống Đốc Nam Kỳ De la
Grandière tuyên bố từ ngày này Nam Kỳ Lục Tỉnh là của Pháp; ở Nam Kỳ chỉ còn
duy nhất chánh quyền của người Pháp, triều đình Huế không còn quyền lực nữa.
23-8-1871: Một nghị định của Pháp
quy định những người Việt
06-3-1877: Tổng Thống Pháp Patrice
de Mac-Mahon ra sắc lệnh cho áp dụng bộ Hình Luật của nước Pháp ở tất cả các
thuộc địa của Pháp trong đó có Nam Kỳ.
03-10-1883: Tổng thống Pháp Jules
Grévy ra sắc lệnh cho thi hành ở
Nam Kỳ một số điều khoản trong bộ Dân Luật của nước Pháp.
2.2. Luật Hiệp
Hội 1901 của Pháp tạo điều kiện rất đơn giản để xác
lập tư cách pháp nhân của tôn giáo Cao Đài
Vào đầu thế kỷ 20, tiền
khai Lê Văn Trung và không ít tiền khai Cao Đài khác vốn là công chức ngạch cao
trong Phủ Thống Đốc Nam Kỳ, hoặc là các chủ quận. Do đó các tiền khai đạo Cao
Đài biết cách “khai thác” luật lệ Pháp áp dụng tại thuộc địa Nam Kỳ.
Khi khai tịch Đạo (23-8 Bính Dần, 29-9-1926)
các tiền khai đã theo Luật Hiệp Hội
(Loi sur les associations) 01-7-1901. Luật mang chữ ký của Thủ Tướng Pierre Marie René Ernest Waldeck-Rousseau
(1846-1904), ban hành dưới thời Tổng Thống Émile Loubet. Toàn văn Luật Hiệp Hội 01-7-1901
được đăng trên Công Báo nước Pháp ngày 02-7-1901.
Trích dịch Luật Hiệp Hội 01-7-1901
Điều
2
Các hiệp hội có thể
được tự do thành lập không cần cho phép
hay khai báo trước, nhưng chỉ được hưởng năng lực pháp lý nếu phù hợp với
những quy định ở Điều 5.
Điều 5
Mọi hiệp hội muốn có
năng lực pháp lý dự kiến trong Điều 6 phải được những người sáng lập công
bố.
Việc khai báo trước
được thực hiện ở cơ quan của tỉnh hay của quận nơi hiệp hội đóng trụ sở.
Hiệp hội thông báo tên và mục đích của mình, trụ sở các cơ quan và tên, nghề
nghiệp, nơi ở và quốc tịch của những người trong ban quản trị hay ban lãnh đạo
hiệp hội với chức danh của họ. Hai bản điều lệ đính kèm tờ khai. Bản biên nhận tờ khai sẽ được cấp trong vòng năm ngày.([7])
Nhận
định: Vì luật của nước Pháp được áp dụng tại thuộc địa Nam Kỳ và nội
dung Luật Hiệp Hội 1901 có những quy định rất thoáng, thế nên tôn giáo Cao Đài
đã xác lập tư cách pháp nhân rất dễ dàng và đơn giản ở Sài Gòn vào năm 1926. Xuất
phát điểm của đạo Cao Đài không thể là Trung Kỳ hay Bắc Kỳ vốn còn chịu sự chi
phối của luật triều Nguyễn.([8])
III.
ĐẠO CAO ĐÀI THỜI TIỀM ẨN (1920-1926)
Đạo Cao Đài trải qua thời tiềm ẩn dài sáu năm (1920-1926) để
chuẩn bị nhân sự khai Đạo và mọi điều kiện cần yếu khác cho cơ cấu một tôn giáo
có quy củ.
1. Vị đệ tử đầu tiên của
Đức Cao Đài Thượng Đế: ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932)
Ngài Ngô sinh ở quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn; tốt nghiệp
collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn) với bằng thành chung; làm công chức tại Phủ
Thống Đốc Nam Kỳ (Sài Gòn) từ năm 1899. Sau đó, ngài lần lượt làm việc tại tỉnh
Tân An (1909), tỉnh Hà Tiên (1920), và quận đảo Phú Quốc (1920). Trở về Sài Gòn,
ngài làm việc lần nữa tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (1924), nghỉ hưu (1931), rồi về
Cần Thơ cho tới khi quy thiên. Các mốc chủ yếu trong đời ngài Ngô vào những năm
1920-1925 như sau:
1.1. Nghe hồng
danh Cao Đài lần thứ nhất (1920):
Tại tỉnh Tân An (khoảng tháng 1 hay 2-1920), ngài Ngô lập đàn
cầu cơ tại nhà, tiếp được một đấng xưng danh Cao Đài Tiên Ông.
1.2. Nghe hồng
danh Cao Đài lần thứ hai (tháng 9-1920):
Tại tỉnh Hà Tiên, đêm trung thu (Chủ Nhật 26-9-1920), ngài
Ngô hầu đàn tại nhà ông Hữu Lân Lâm
Tấn Đức (1866-1934), là bác của Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906-1969). Ơn Trên
giáng, ban cho bốn câu thơ, mở đầu với câu: Cao
Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu.
1.3. Thọ pháp
(1921):
Cuối năm 1920, trong một đàn cơ tại chùa Quan Âm trên núi
Dương Đông (đảo Phú Quốc), một Tiên Ông ẩn danh dạy rằng nếu ngài Ngô chịu làm
đệ tử thì Tiên Ông sẽ truyền đạo. Kể từ mùng 1 Tết Tân Dậu (Thứ Ba 08-02-1921),
ngài ăn chay trường, và tu thiền theo pháp
môn của Tiên Ông ẩn danh.
1.4. Thiên Nhãn xuất hiện
hai lần (tháng 4-1921):
Tiên Ông dạy ngài Ngô tìm một biểu tượng cho nền đạo mới.
Ngài đề nghị chữ thập 十 nhưng
Tiên Ông dạy phải tìm một biểu tượng khác. Suốt cả tuần, ngài vẫn không nghĩ ra
được.
Sáng Thứ Tư 20-4-1921, lúc 8 giờ, ngài ngồi trên võng, phía
sau dinh quận Phú Quốc, nhìn ra biển khơi, chợt thấy một con mắt trái thật lớn,
linh động, hào quang chói lọi. Ngài sợ, lấy tay che mắt. Hồi lâu, bỏ tay ra
nhìn, cảnh tượng vẫn còn. Ngài chắp tay, khấn xin Tiên Ông cho con mắt ấy biến
đi, nếu như Tiên Ông muốn ngài thờ con mắt. Sau đó cảnh tượng mờ dần rồi biến mất.
Lòng còn phân vân, ngài chưa thực hiện lời hứa. Vài hôm sau, ngài lại thấy cảnh
tượng y như vậy, và cũng chỉ sau khi khấn, hứa xin thờ con mắt thì cảnh tượng
mới biến đi.
1.5. Nghe hồng
danh Cao Đài lần thứ ba (tháng 4-1921):
Vài ngày sau khi con mắt xuất hiện lần thứ hai, ngài Ngô hầu
đàn tại chùa Quan Âm. Tiên Ông dạy ngài vẽ lại Thiên Nhãn (con mắt trái) như đã
mục kích để thờ. Tiên Ông xưng hồng danh Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, và dạy ngài gọi Đức Cao Đài bằng Thầy.
1.6. Nếp sống
ẩn tu giữa Sài Gòn (1924-1925):
Thứ Ba 29-7-1924, ngài Ngô rời đảo Phú Quốc về Sài Gòn làm
việc, và ẩn tu cho tới đầu năm 1926 mới được Đức Cao Đài Thượng Đế cho phép khởi
sự truyền đạo.([9])
2. Các ngài Cao-Phạm ở phố Hàng Dừa (Sài Gòn)
2.1. Ngài Cao Quỳnh
Cư (1888-1929) và Hương Hiếu (1887-1971):
Ngài Cao sinh tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh
Tây Ninh; làm thơ ký cho Sở Hỏa Xa Sài Gòn (1925); thuê nhà số 134 đường
Bourdais (nay là đường Calmette, quận 1). Ngài kết hôn với cô Nguyễn Thị Hương
(cũng gọi Hiếu, Hương Hiếu), sinh tại Đa Kao (quận Nhứt, Sài Gòn).
Cô Hương học trường nữ nội trú Nhà Trắng (1893) do các nữ tu
người Pháp dòng Saint Paul de Chartres (SPC) trông coi; học thêm nữ công (1903).
Nhờ căn bản giáo dục này, ngài Hương Hiếu có công may phẩm phục cho các chức
sắc Thiên phong đầu tiên của Hội Thánh Cao Đài; quan trọng nhất là làm điển ký,
ghi chép các buổi thông công của ba vị Cao-Phạm.
2.2. Ngài Cao Hoài
Sang (1901-1971):
Ngài Cao sinh tại làng Thái Bình, tỉnh Tây Ninh; học collège
Chasseloup-Laubat (Sài Gòn), đậu bằng thành chung, làm thơ ký cho Sở Thương
Chánh Sài Gòn (1920). Ngài thuê nhà trên đường D’Arras (nay là đường Cống
Quỳnh, quận 1), cách nhà ngài Phạm Công Tắc một căn.
2.3. Ngài Phạm
Công Tắc (1890-1959):
Ngài Phạm sinh tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân
An; học collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn), đậu bằng thành chung (1907); làm
thơ ký Sở Thương Chánh Sài Gòn (1910), đồng sở với ngài Cao Hoài Sang.
2.4. Thử dùng phương
pháp xây bàn (la table tournante):
Đêm Thứ Sáu 24-7-1925, tại nhà ngài Cao Hoài Sang ở đường
D’Arras, các vị Cao-Phạm tập xây bàn theo chỉ dẫn trong sách Thông Linh Học (Spiritisme) tiếng Pháp. Hai đêm đầu chẳng
được kết quả gì. Đêm Chủ Nhật 26-7-1925, tiếp được chơn linh Cao Quỳnh Tuân
(thân phụ ngài Cư). Khởi lòng tin, từ đó hằng đêm các vị nhẫn nại thông công.
2.5. Đức Thất Nương:
Đêm Thứ Năm 30-7-1925 tại nhà ngài Cao Hoài Sang, các vị tiếp
được Đức Thất Nương là một trong chín vị Tiên Nương phò giá Đức Phật Mẫu (Diêu
Trì Kim Mẫu). Sau đó, hầu như đêm nào cũng thông công được nhiều Đấng thiêng
liêng, các vị xướng họa thơ cùng các Đấng.
2.6. Đức AĂÂ:
Đêm Thứ Sáu 28-8-1925, tại nhà ngài Cư, các vị Cao-Phạm tiếp
được một Đấng xưng danh AĂÂ. Mãi đến cuối tháng 12-1925 mới biết Đức AĂÂ chính
là Đức Cao Đài Thượng Đế.
Đêm trung thu (Thứ Sáu 02-10-1925), tuân lịnh Đức AĂÂ, các vị
thiết lễ Hội Yến Bàn Đào (tiệc chay) tại nhà ngài Cư để kính dâng Đức Diêu Trì
Kim Mẫu (Phật Mẫu) và các Đấng thiêng liêng. Từ đấy, các vị bắt đầu dùng đại
ngọc cơ làm phương tiện thông công.
2.7. Các vị Cao-Phạm
trở thành đệ tử Cao Đài:
Tuân lịnh Đức AĂÂ, các vị Cao-Phạm làm lễ vọng Thiên cầu Đạo
vào đêm Thứ Tư 16-12-1925 (01-11 Ất Sửu) ở ngoài sân, trước nhà ngài Cư. Từ
đấy, các vị trở thành đệ tử Đức Cao Đài Thượng Đế (tá danh AĂÂ).
2.8. Ngài Lê Văn
Trung (1876-1934):
Những đêm cầu Tiên ở phố Hàng Dừa được nhiều người biết và
tìm đến. Trong đó có ngài Lê Văn Trung, sinh tại làng Phước Lâm, tổng Phước
Điền Trung, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat
ở Sài Gòn (1894), thi đậu thơ ký, làm việc tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ mười hai
năm, ngài thôi việc để ứng cử và đắc cử Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial de Cochinchine). Chánh Phủ Pháp tặng thưởng ngài Bắc
Đẩu Bội Tinh hạng Năm – Chevalier de la
Légion d’Honneur (1912). Ngài được chọn làm nghị viên Hội Đồng Chánh Phủ
Đông Dương – Conseil de Gouvernement de
l’Indochine (1914), bấy giờ thường gọi là Thượng Nghị Viện Đông Dương.
Ngài còn làm kinh doanh sau khi thôi nghề công chức. Việc
kinh doanh bắt đầu sa sút (1920), rồi hoàn toàn thua lỗ (1924). Để giải sầu,
ngài hút thuốc phiện. Thị lực giảm sút, ngài gần như mù.
Khoảng tháng 6-1925 ngài hầu đàn Chợ Gạo (nay ở khoảng ngã ba
Phú Lâm và Hùng Vương, quận 6). Đức Lý Thái Bạch giáng cơ khuyên ngài tu hành.
Ngài bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và thị lực dần dần phục hồi. Sau
khi đàn Chợ Gạo ngưng hẳn, ngài đến nhà ngài Cao Quỳnh Cư hầu đàn (Thứ Hai
11-01-1926), được Đức Cao Đài Thượng Đế giáo hóa. Một tuần sau, đàn cơ lập tại nhà
ngài ở Quai Testard, Chợ Lớn (nay là đường Châu Văn Liêm, quận 5), Đức Cao Đài
lâm đàn thâu nhận ngài làm môn đồ.([10])
2.9. Hiệp với ngài Ngô
Văn Chiêu:
Khoảng hạ tuần tháng 01-1926, Đức Cao Đài dạy các vị Cao-Phạm
phải hiệp cùng ngài Ngô mở đạo Cao Đài, và phải kính ngài Ngô là Anh Cả. (Theo Tân Luật Cao Đài, Anh Cả tức là Giáo
Tông.) Các vị được ngài Ngô chỉ dẫn nghi thức thờ phượng, cách sắp đặt bàn thờ
(Thiên Bàn) có thánh tượng Thiên Nhãn.
2.10. Ngài Ngô
tách khỏi các vị Cao-Phạm:
Đức Cao Đài dạy ba vị Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, và Phạm
Công Tắc đến báo cho ngài Ngô biết về lịnh may cho ngài thiên phục Giáo Tông
(tháng 4-1926). Ngài Ngô từ tạ phẩm Giáo Tông (Thứ Bảy 24-4-1926), tách ra khỏi
hoạt động ngoại giáo công truyền (phổ độ) của các vị Cao-Phạm để chuyên tâm xây
dựng nền tảng vững chắc cho nội giáo tâm truyền (vô vi).
3. Khai tịch Đạo (xác lập tư cách pháp nhân tôn giáo Cao Đài)
Đêm Thứ Tư 29-9-1926, lúc 8 giờ, tại nhà ngài Nguyễn Văn Tường
(1887-1939) ở Sài Gòn (nay là số 208 đường Cô Bắc, quận 1), hơn hai trăm bốn mươi chức sắc và tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài hội họp để khai tịch Đạo,
thực hiện theo Luật
Hiệp Hội 01-7-1901 của Pháp, do Thủ Tướng Waldeck-Rousseau (1846-1904) ban hành. Ngài Lê Văn Trung mang hồ sơ (ghi ngày Thứ Năm 07-10-1926) đến Phủ
Thống Đốc Nam Kỳ nộp cho Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol.
Ngay sau sự kiện khai tịch Đạo, các tiền khai Cao Đài liền
truyền giáo khắp các tỉnh Nam Kỳ mà không cần một giấy phép nào của chánh
quyền, căn cứ Điều 2 của Luật Hiệp Hội 1901. Sự kiện khai tịch Đạo đã kết thúc thời tiềm
ẩn của đạo Cao Đài.([11])
IV.
KHAI MINH ĐẠI ĐẠO (1926)
Bước
chuyển tiếp giữa thời tiềm ẩn và sự kiện Khai Minh Đại Đạo là cuộc Phổ Độ Lục
Tỉnh ([12])
kéo dài một tháng tại Nam Kỳ.
1. Phổ Cáo Chúng Sanh
Mấy ngày sau sự kiện khai tịch Đạo, tập sách nhỏ nhan đề Phổ Cáo Chúng Sanh được xuất bản (14 trang, 15x24cm, nhà in L’Union), giới thiệu một số điểm căn
bản của tôn giáo mới.
2. Phổ Độ Lục Tỉnh
Các tiền khai Cao Đài lập thành ba nhóm. Nhóm một phụ trách chín tỉnh; nhóm hai, năm tỉnh; nhóm
ba, sáu tỉnh.
Từ Thứ Bảy 16-10-1926, sau một tháng truyền đạo, do huyền
diệu cơ bút, mỗi nhóm độ được vài vạn người nhập môn Cao Đài. Trong đó nhiều vị
là những người tai mắt trong xã hội; các vị ấy mau chóng trở thành những bậc
hướng đạo nòng cốt trong giai đoạn xây dựng Hội Thánh Cao Đài ở làng Long Thành
(tỉnh Tây Ninh) cũng như phát triển đạo Cao Đài suốt nhiều thập niên sau đó.
Chủ Nhật 14-11-1926, các tiền khai Cao Đài kết thúc cuộc Phổ
Độ Lục Tỉnh để tập trung về chùa Thiền Lâm (chùa Gò Kén), tiếp tục chuẩn bị ráo
riết cho đại lễ Khai Minh Đại Đạo.
3. Thánh thất Thiền Lâm
Chùa Thiền Lâm cất tại Gò Kén.([13]) Trụ trì là Hòa
Thượng Như Nhãn (Thích Từ Phong). Cuối tháng 8-1926, Hòa Thượng Như Nhãn bằng
lòng cho các tiền khai đạo Cao Đài mượn chùa Thiền Lâm (cất dở dang) để làm
thánh thất Thiền Lâm (cũng gọi thánh thất Gò Kén, thánh thất Từ Lâm). Từ đầu tháng 9-1926 các
tiền khai Cao Đài dốc tiền của và tâm sức vào thánh thất để hoàn thiện cả trong
lẫn ngoài.
4. Đại lễ Khai Minh Đại Đạo (1926)
Theo chương trình, đại lễ Khai Minh Đại Đạo tiến hành trong
ba ngày ba đêm, từ Thứ Năm 18 đến hết Thứ Bảy 20-11-1926 (14, 15, và 16-10 Bính
Dần). Từ Thứ Tư 17-11, nhiều đoàn người bắt đầu tuôn về Gò Kén dự lễ.
Lễ tấn phong các chức sắc Thiên phong đầu tiên của đạo Cao
Đài diễn ra vào giờ Tý đêm Thứ Năm 18 rạng Thứ Sáu 19-11-1926 (đêm 14 rạng
15-10 Bính Dần) trong chánh điện thánh thất Thiền Lâm. Các chức sắc mặc phẩm
phục ba phái Thái, Thượng, Ngọc (vàng, xanh, đỏ).
5. Pháp Chánh Truyền
Đêm Thứ Bảy 20-11-1926, giáng cơ tại thánh thất Thiền Lâm,
Đức Chí Tôn ban Pháp Chánh Truyền, quy
định tám phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài, từ cao nhất là Giáo Tông tới phẩm chót là
Lễ Sanh. Đêm sau, Đức Chí Tôn quy định việc công cử chức sắc từ Lễ Sanh lên tới
Giáo Tông.
6. Kéo dài đại lễ tại thánh thất Thiền Lâm
Mỗi đêm, sau khi cúng thời Tý thì lập đàn thông công để Ơn
Trên thâu nhận tín đồ. Trung bình mỗi đêm có khoảng một trăm người (hoặc nhiều
hơn) xin nhập môn; đàn cơ thường kéo dài tới 2 hay 3 giờ sáng. Mỗi người nhập
môn xong được cấp một giấy chứng nhận.
Dòng người các nơi không ngớt tuôn về thánh thất Thiền Lâm;
thay vì ba ngày ba đêm như đã định, cuộc lễ kéo dài đến ba tháng, với nhiều sự
kiện quan trọng, lược kể như sau:
6.1. Giáo Tông Vô
Vi:
Vâng lịnh Đức Chí Tôn, Đức Lý Thái Bạch nhận trọng trách Giáo
Tông Vô Vi (Thứ Hai 29-11-1926).
6.2. Tân Luật:
Thứ Hai 06-12-1926, Đức Chí Tôn dạy các tiền khai phải thường
trực nơi thánh thất Thiền Lâm để lập Tân Luật, gồm ba phần: (a) Tịnh Thất Luật, quy định về tu tịnh; (b)
Đạo Pháp Luật, quy định về việc cai
trị trong đạo Cao Đài. (c) Thế Luật, quy
định về đời sống tín đồ.
Sau khi Đức Chí Tôn phê chuẩn (Thứ Hai 07-3-1927), Tân Luật được in lần đầu tiên tại nhà in
Commerciale C. Ardin, Sài Gòn, 14 trang (15x24cm), phát hành tháng 6-1927.
6.3. Chữ Khí ở bàn thờ Hộ Pháp:
Thứ Hai 13-12-1926, Đức Lý Thái Bạch dạy làm tấm nỉ dài
(1,5x3m), thêu chữ Khí 氣, đặt ở bàn thờ Hộ Pháp, đối diện Thiên Bàn. Đức
Lý dùng đại ngọc cơ viết chữ Khí theo
cách vẽ bùa. Thứ Hai 20-12-1926, Đức Chí Tôn dạy dùng nỉ đỏ làm nền, dùng chỉ
vàng thêu chữ Khí.
6.4. Pháp Chánh Truyền phái nữ:
Thứ Tư 02-02-1927, Đức Lý Thái Bạch giáng cơ, lập Pháp Chánh Truyền cho nữ chức sắc Cửu
Trùng Đài, từ phẩm Đầu Sư xuống tới Lễ Sanh. Nữ chức sắc mặc màu trắng, vì không
chia ba phái Thái, Thượng, Ngọc (áo vàng, xanh, đỏ).
6.5.
Pháp Chánh
Truyền Hiệp Thiên Đài:
Chủ Nhật 13-02-1927, Đức Chí Tôn ban Pháp Chánh Truyền cho Hiệp Thiên Đài. Trên hết có Hộ Pháp Phạm Công
Tắc (chưởng quản chi Pháp), bên phải Hộ Pháp có Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư
(chưởng quản chi Đạo), bên trái Hộ Pháp có Thượng Sanh Cao Hoài Sang (chưởng
quản chi Thế). Dưới ba phẩm này là Thập Nhị Thời Quân gồm ba chi (Pháp, Đạo,
Thế).
7. Hòa Thượng
Như Nhãn đòi lại chùa:
Đàn cơ đêm Thứ Năm 18 rạng Thứ Sáu 19-11-1926 (đêm 14 rạng
15-10 Bính Dần), sau khi Đức Chí Tôn thăng thì tà quái xâm nhập chánh điện
thánh thất Thiền Lâm, vì tiền khai Lê Văn Lịch (Ngọc Lịch Nguyệt) sơ sót trong
việc trấn đàn. Sự kiện đáng tiếc này khiến Hòa Thượng Như Nhãn mất lòng tin. Cũng
do áp lực từ các Phật tử, đầu tháng 12-1926, Hòa Thượng Như Nhãn nhất quyết đòi
lại chùa Thiền Lâm.
Chùa được trả lại cho Hòa Thượng Như Nhãn (Thứ Tư 23-3-1927),
sau khi mọi tài sản của thánh thất đã chở hết về khoảnh rừng mới mua ở làng
Long Thành (tỉnh Tây Ninh).
Cuộc thiên di nhọc nhằn này kết thúc thời Khai Minh Đại Đạo
tại thánh thất Thiền Lâm kéo dài ba tháng (và thêm một tháng do trễ hẹn trả
chùa vì chưa tìm được đất mới). Cuộc thiên di này còn đánh dấu một dấu mốc cho
thời kỳ kiến tạo Tòa Thánh Tây Ninh từ cuối tháng 02-1927 cho tới khi lạc thành
trọng thể (Thứ Ba 01-02-1955, mùng 9 tháng Giêng Ất Mùi).([14])
V.
THÀNH TỰU, PHÂN LY, NỖ LỰC THỐNG NHẤT
1. Thành tựu
Kể từ đầu năm 1927 cho tới cuối thập niên 1930, Hội Thánh Cao
Đài Tây Ninh đạt được nhiều thành tựu rất ý nghĩa (tạm kể một ít, không theo
thứ tự thời gian):
- lập thành và ban hành một số luật đạo;
- xây dựng hệ thống hành chánh đạo tinh vi từ Tòa Thánh xuống
các tỉnh, quận, xã, ấp;
- hệ thống hóa và chuẩn hóa nghi lễ;
- xuất bản một số kinh sách căn bản;
- tổ chức các khóa đào tạo chức sắc, chức việc;
- lập được thánh thất đầu tiên tại Nam Vang (Cam Bốt) và rồi
hình thành Hội Thánh Ngoại Giáo (La
Mission Étrangère du Caodaïsme) tại đấy;
- lập được thánh thất đầu tiên tại Hà Nội (thánh thất Thăng
Long, nay không còn);
- lập được trường tiểu học dạy miễn phí, v.v…([15])
2. Phân ly
Một quá trình tăng trưởng mau lẹ khó tránh khỏi những mâu
thuẫn và xung khắc dần dà nảy sinh. Vào những năm 1930, cực điểm của những bất
hòa này dẫn đến vài trường hợp tách rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh để sau cùng
hình thành vài Tòa Thánh, Hội Thánh ở một số tỉnh cách xa Tây Ninh. Ngoài ra
còn có vài cộng đồng Cao Đài không tách ra từ Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, và
rồi cũng trở thành Hội Thánh, có Tòa Thánh riêng ở miền Trung và miền Nam.([16])
3. Nỗ lực thống nhất
(1935-1972)
Từ 1935 đến 1972, một số nỗ lực thống nhất đạo Cao Đài đều
không thành công. Trong đó, nổi bật là Liên Hòa Tổng Hội
hoạt động từ năm 1935 đến khoảng giữa năm 1940 thì tự giải thể. Sau đó có Cơ
Quan Vận Động Cao Đài Thống Nhứt (ngưng
lại vào năm 1962).
Ngày 22-11-1972 (17-10 Nhâm Tý) đại diện các Hội Thánh, Giáo
Hội thuộc các chi phái đạo Cao Đài hưởng ứng thơ mời của Hội Thánh Tây Ninh đã
về Tòa Thánh Tây Ninh dự đại hội thảo luận về việc thống nhứt đạo Cao Đài. Cuối
cùng vẫn không đạt được kết quả.([17])
VI. CHUYỂN HƯỚNG VẬN ĐỘNG
THỐNG NHỨT SANG XÂY DỰNG Ý THỨC THỐNG NHỨT
Sau những nỗ lực vận động thống nhứt đạo Cao Đài thất bại,
Đức Chí Tôn và Công Đồng Tam Giáo chuyển hướng nhân tâm sang công cuộc xây
dựng ý thức thống nhứt, và hai điểm mốc quan
trọng là: a/ giữa thập niên 1950 với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài tại Đà Nẵng,
và b/ giữa thập niên 1960 với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam tại
Sài Gòn.
1. Hội Thánh Truyền Giáo
Cao Đài
1.1. Thời khai sơn phá
thạch (1934-1955):
Đầu thập niên 1930, ở làng Bất Nhị (nay thuộc xã Điện
Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) có một nhóm nhỏ thanh thiếu niên vốn
là anh em, họ hàng đi vào Sài Gòn; sau đó nhóm này được huấn luyện làm đồng tử
tại thánh tịnh Đại Thanh (quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định), thuộc Hội Thánh Cao Đài
Tiên Thiên.([18])
Tuân lịnh Ơn Trên, Thứ Hai
22-10-1934 (15-9 Giáp Tuất), nhóm này trở về quê truyền đạo với trưởng đoàn là
Trần Công Ban (1906-?). Bốn đồng tử là Lương Vĩnh Thuật (1918-1982), Trần Công Sĩ
(1921-?), Lê Văn Qui (1917-1935), Lê Văn Phụng (1915-1935). Thánh danh của bốn
đồng tử theo thứ tự là Thanh Long, Xích Lân, Kim Qui, Bạch Phụng; vì thế, Ơn
Trên ban chung cho nhóm thánh hiệu Tứ Linh Đồng Tử.
Giữa tháng 7-1935, sau khi Bạch Phụng và Kim Qui từ trần, mà
Xích Lân không còn phù hợp với sứ mạng, Ơn Trên ban lịnh cho Trần Quang Châu
(1915-2000) làm đồng tử, thánh danh Bạch Hổ. Sinh ở làng Tứ Phú (nay thuộc
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), Bạch Hổ kết hợp với Thanh Long thành một cặp
đồng tử rất thần diệu giúp cho sứ mạng truyền giáo ở Trung Kỳ trong hoàn cảnh
triều đình Huế và thực dân Pháp không ngừng bách hại đạo Cao Đài.([19])
Tháng 12-1934, kết quả đầu
tiên của đoàn truyền giáo Cao Đài ở Trung Kỳ là thánh tịnh Thanh Quang ra đời
(nay ở xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), mở màn cho các thánh thất
khác lần lượt mọc lên ở nhiều địa phương khác nhau trong các năm sau đó.
Trung tuần tháng 2-1948,
theo lịnh Ơn Trên, một đại hội quy tụ đại biểu của Nam Ngãi Bình Phú (bốn tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, và Phú Yên) tổ chức thành công, kết quả
là hình thành Cơ Quan Truyền Giáo
Trung Bộ, có thể xem là tiền thân của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Sau hai thập niên không ngừng truyền giáo, vào Thứ Hai
28-11-1955 (15-10 Ất Mùi), lễ trí thạch xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa
được tổ chức trang trọng tại thành phố Đà Nẵng. Bản vẽ Trung Hưng Bửu Tòa hoàn
thành đúng theo thánh ý Đức Trần Hưng Đạo.([20])
1.2. Hội Thánh Truyền Giáo Cao
Đài ra đời (1956):
Chủ Nhật 08-7-1956 (01-6 Bính Thân), lễ khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa
được tổ chức rất trọng thể tại số 35 đường Nguyễn Hoàng (nay là 63 đường Hải
Phòng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng). Dịp này, Hội Thánh Truyền Giáo
Cao Đài chính thức thành lập với vị chủ trưởng tài đức là ngài Huệ Lương
Trần Văn Quế (1902-1980).
1.3. Về đặc nhiệm
của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài:
Danh xưng Hội Thánh gắn với đặc nhiệm “Truyền Giáo”, tức là
đem giáo lý (hay thánh giáo) xây dựng ý thức thống nhứt đạo Cao Đài trong chức
sắc, chức việc, tín đồ; đào tạo lớp cán bộ tài đức dồi dào tâm huyết phụng sự
cho công cuộc thống nhứt đạo Cao Đài trong tương lai.
Thánh giáo do Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thông công và
tiếp nhận chẳng những xác định sự trở lại của Đức Giê-su Ki-tô trong Kỳ Ba, mà
còn dùng rất nhiều thuật ngữ riêng của Công Giáo và Tin Lành.([21]) Chúng ta không hiểu
Thiên cơ sẽ vận chuyển Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thế nào, nhưng xin nhắc
nhau khắc ghi sấm ngôn của Đức Chúa (Giê-rê-mi-a
29:11): Vì Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi … / For I know the plans I have for you …
2. Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
Sứ mạng Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài quá lớn, dù Ơn Trên
luôn luôn hộ trì và soi dẫn, vẫn không tránh khỏi những lúc thử thách gay go,
làm chậm kế hoạch Thiên Đình hoạch định. Như để hộ trợ một “liên thông” cho Hội
Thánh, đầu năm 1965 Thiên Đình thành lập Văn Phòng Phổ Thông
Giáo Lý, đặt tại lầu 1, số nhà 165E đường Cống Quỳnh, quận Nhứt, Sài Gòn.
Đây là tiền thân của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài
Giáo Việt Nam (số 171 đường Cống Quỳnh), hiện nay gọi là Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo (số 171B đường Cống
Quỳnh).([22])
Như đã nói, giữa Cơ Quan này
và Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có tính “liên thông” cho nên danh xưng Cơ Quan
gắn liền với đặc nhiệm “Phổ Thông Giáo Lý”, đồng nghĩa với “Truyền Giáo”. Hơn
nữa, vị chủ trưởng tài đức của Hội Thánh Truyền Giáo là ngài Huệ Lương Trần Văn
Quế chính là Tổng Lý Minh Đạo đầu tiên của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý.([23])
VIII.
THAY LỜI KẾT
Con đường lịch sử của đạo
Cao Đài vẫn chỉ mới bắt đầu. Những người con Cao Đài chí thành và trung kiên
hành đạo hôm nay sẽ là con người lịch sử ngày mai. Những dấu chân hôm nay đã và
đang nối tiếp những dấu chân phía trước của hàng hàng lớp lớp người con áo
trắng tin yêu của Đức Cao Đài Thượng Đế.([24])
HUỆ KHẢI
Nhiêu
Lộc, 15-01-2021
([1]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Thời Tiềm Ẩn 1920-1926
/ A Concise Caodai History: The Earliest Beginnings 1920-1926. Hà Nội: Nxb
Hồng Đức, 2017, tr. 11-21.
([2]) Xin đọc thêm: Huệ
Khải, Tam Giáo Việt
- Huệ Khải, Một Góc Nhìn Văn Hóa Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011. Bài “Ki Tô Giáo Trong Đạo Cao Đài” (tr. 43-50), và bài “Tìm
Hiểu Ý Nghĩa, Nguồn Gốc Và Cách Dịch Tên Gọi Các Chức Sắc Cửu Trùng Đài” (tr.
51-66).
- Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài / A Preliminary Survey of
Some Christian Terms Used in Caodaism. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019.
([4]) Jayne S. Werner, Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the
Cao Dai in
([5]) Tên gọi Nam Kỳ
ra đời năm 1834 (đời vua Minh Mạng). Mãi tới tháng 5-1945 tên gọi Nam Bộ mới được
tạo ra. Nhiều sách báo nói đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ vào năm 1926 thì không đúng.
([6]) Xin đọc thêm: Huệ
Khải, Đất
([7]) Article 2: Les associations de personnes pourront se former librement sans
autorisation ni déclaration préalable, mais elles ne jouiront de la capacité
juridique que si elles se sont conformées aux dispositions de l'article 5.
Article 5: Toute association qui voudra obtenir la
capacité juridique prévue par l'article 6 devra être rendue publique par les
soins de ses fondateurs.
La déclaration préalable en sera faite à la préfecture du
département ou à la sous-préfecture de l'arrondissement où l'association aura
son siège social. Elle fera connaître le titre et l'objet de l'association, le
siège de ses établissements et les noms, professions, domiciles et nationalités
de ceux qui, à un titre quelconque, sont chargés de son administration ou de sa
direction. Deux exemplaires des statuts seront joints à la déclaration. Il sera
donné récépissé de celle-ci dans le délai de cinq jours.
([8]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Đất Nam Kỳ − Tiền Đề Pháp Lý Mở Đạo Cao Đài
/ Cochinchina as a Legal Precondition for the Foundation of Caodaism. Hà Nội:
Nxb Tôn Giáo, 2008, 2010.
([9]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu − Người Môn Đệ Cao Đài Đầu
Tiên / Ngô Văn Chiêu – the First Caodai Disciple. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo,
2008, 2009, 2012.
([10]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Hành
Trạng Tiền Khai Lê Văn Trung 1876-1934. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017.
([11]) Xin đọc
thêm: Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Thời
Tiềm Ẩn 1920-1926 / A Concise Caodai History: The Earliest Beginnings 1920-1926.
Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017.
([13]) Chùa Thiền Lâm (30x15m) ngày nay tọa
lạc tại số 5/11, ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh, cách thành phố Tây Ninh khoảng năm, sáu cây số, nằm bên phải đường 22B chạy
về Sài Gòn.
([14]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926
/ A Concise Caodai History: The 1926 Inauguration. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo,
2015.
([15]) Về công cuộc giáo dục ban sơ của Hội Thánh Tây Ninh, xin đọc thêm: Huệ Khải, Gia Đình Trong Tân Luật Cao Đài / Family in the Caodai New Law. Hà
Nội: Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 36-40.
([16]) Xin đọc thêm: Huệ Khải, Một
Thoáng Cao Đài / Brief Glimpses into Caodaism. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2017,
tr. 32-35: Đôi Nét Về Chín Hội Thánh Cao
Đài Hiện Nay.
([17]) Về đại hội năm 1972 tại Tây Ninh, xin đọc thêm: Huệ Khải (chủ biên), Đại Đạo Văn Uyển, Tập Hanh (số 6), Năm Quý Tỵ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo
2013, tr. 87-104.
([19]) Về những bách hại đạo Cao Đài, xin đọc: Huệ Khải, Cấm Đạo
Cao Đài Ở Trung Kỳ (1928-1950) / Caodaism under Persecution in Central Vietnam
(1928-1950). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012.
([20]) Thứ Ba 05-11-1955, trong đàn cơ tại thánh
thất Từ Vân trên đường Nguyễn Huệ (nay là số 100 đường Thích Quảng Đức, quận
Phú Nhuận), Đức Thánh Trần dạy rằng kiến trúc “phải có tinh thần thuần túy Việt Nam”, “trong và ngoài hoàn toàn dùng
tiếng Việt (chính tả cho đúng)”, “vẽ nét Việt, sơn màu Việt”, v.v...
- Huệ Khải, Sơ Khảo
Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài / A Preliminary Survey of Some Christian
Terms Used in Caodaism. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019.
- Huệ Khải, “Tìm Hiểu
Hai Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài: HỌ, HỌ ĐẠO”, in trong nguyệt san Công Giáo Và Dân Tộc, số 291, tháng
3-2019, tr. 132-144.
- Huệ Khải, “Tìm Hiểu
Ba Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài: BỮA TIỆC, GIAO ƯỚC, GIÁO HỮU”, in
trong nguyệt san Công Giáo Và Dân Tộc, số
293, tháng 5-2019, tr. 135-144.
- Huệ Khải, “Hai Thuật Ngữ THÁNH LINH, THUỘC LINH Trong Kinh Thánh Và Thánh Giáo
Cao Đài”, in trong nguyệt san Công
Giáo Và Dân Tộc, số 312, tháng 12-2020, tr. 131-144.
([22]) Xin đọc thêm:
Đơn Tâm, Mục Đích, Đường Lối Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Đại Đạo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013.
([23]) Ngài Huệ Lương
còn là Vĩnh Tịnh Sư của Minh Lý Thánh Hội (Tam Tông Miếu, số 82 đường Cao Thắng,
quận 3). Bởi thế, đã tạo thành cái thế “ba chân vạc” do Thiên Đình an bài như lời
Quảng Đức Chơn Tiên: Trung Hưng, Minh Lý,
Cơ Quan / Tuy ba mà một, chu toàn đồng thân. (Minh Lý Thánh Hội, ngày 07-6
Tân Dậu; Thứ Tư 08-7-1981).