A &
B TRONG CA DAO
TRẦN HUIỀN ÂN
Nhìn qua nhan đề A&B có thể không
nghĩ là chuyện dân gian. Đã quốc ngữ lại thêm ab/xy có vẻ là chuyện toán học.
Nhưng đó là hồi xưa, bây giờ quốc ngữ đâu chỉ dành riêng cho văn chương bác
học, người ta vẫn nói với nhau rằng: Ông/bà đó trình độ chỉ A-Bê; hay: Việc này
tôi lo từ A tới Zét. Vậy thì nói chuyện dân gian dưới nhan đề A&B thiết
tưởng không có gì là không hợp lý. Thật tình thì… do chúng tôi vốn kém về việc
đặt nhan đề.
Thi sĩ Nguyễn Bính (1918-1966) viết trong bài Đêm Mưa Đất Khách:
Bữa mộng ân tình
say đến sáng
Bài thơ tâm sự
nghĩ không ra.
Tửu nhập ngôn xuất, nhậu suốt đêm trường là dốc cả
một trời tâm sự, thế mà thi không chịu xuất. Đành chào thua.
Lại nhớ nhà nghiên cứu Lê Nguyên Tiệp (1915-1972),
ban đầu “nghĩ không ra” bút hiệu, ký tạm XXX, về sau do “ba chữ ích (X)” chuyển
thành Tam Ích và nổi danh khắp cùng nam bắc.
Tôi, một kẻ hậu sinh hèn kém, xin bắt chước thi hứng
của tiền bối Nguyễn và cách diễn đạt của tiền bối Lê, nhân khi bàn về những câu
ca dao có hai mặt đối lập nhau bèn “chơi” cái nhan đề A&B cho gọn.
Những câu ca dao này không dài, chỉ là lục bát, vừa
đủ mười bốn tiếng, nhưng dẫn ra hai ý tưởng trái ngược nhau, phần nhiều là đoạn
bát (tám tiếng) trái ngược với đoạn lục (sáu tiếng); cũng có một số ít câu đoạn
lục miêu tả hoàn cảnh và đoạn bát nêu ra hai mặt của hoàn cảnh ấy.
Hai mặt gọi là đối lập A&B thường thấy như:
- Muốn và sợ,
muốn làm việc đó mà sợ, không dám làm;
- Thương và
ghét, lúc thương thế này, lúc ghét thế khác;
- Xa và gần,
tùy theo cảm tưởng chủ quan của nhân vật chủ động trong câu;
- Vui và buồn,
khi vui thế kia, khi buồn thế nọ, v.v…
1. Muốn và sợ
Con người sống ở trên đời ai cũng có nhiều ước muốn.
Muốn, chứng tỏ điều trong lòng yêu thích, hợp với đạo lý nghĩa tình. Muốn, cũng
thể hiện dục vọng, tham lam, ích kỷ. Có khi đã muốn là làm, chuẩn bị đầy đủ
tinh thần, phương tiện, cố làm cho được:
Muốn ăn con cá cả
phải thả sợi câu dài.
Muốn ăn ong phải
sắm đuốc.
Muốn làm dữ phải
lo xa.
Hay ít ra biết định hướng:
Muốn tắm mát, lên
ngọn sông Đào
Muốn ăn sim chín
thì vào rừng xanh.
Có khi muốn khơi khơi:
Muốn tu chùa ngói
Phật vàng
Chùa tranh Phật
gỗ trong làng thiếu chi.
Có khi muốn nhưng còn tính toán suy bì:
Muốn về đất biển
ăn cua
So đi tính lại
cũng thua đất đồng.
Có khi không muốn, chỉ sợ:
Chim quyên ăn
trái khổ qua
Nuốt vô sợ đắng,
nhả ra sợ bạn cười.
Đó là những trường hợp muốn không nói đến sợ và chỉ
sợ mà thôi. Nhiều trường hợp hàng hai, muốn mà sợ; hai trạng thái này đi với
nhau tạo ra một tâm lý có phần rắc rối.
Sợ điều gì?
Một là sợ trở ngại do thiên nhiên ngăn cách. Thời
xưa, giao thông bất tiện, đi lại khó khăn, lội bộ cả ngày trên đường đèo dốc
núi rừng chẳng được bao xa, lại thêm ác thú rình rập, sức lực con người đâu dám
cự với cọp vằn, gấu ngựa. Nhiều nơi còn nạn giặc cướp, có khi một hai tên chận
đường lấy của, có khi cả bọn giết người hãm hiếp. Sợ là phải.
Ngay cả những ai xuôi vạn lý mang danh tứ chiếng
giang hồ:
Thương em anh
cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ,
sợ phá Tam Giang.
Truông nhà Hồ: Truông là rừng.
Truông nhà Hồ, tức Hồ Xá Lâm là một đám rừng lớn tại làng Hồ Xá huyện Vĩnh Linh
tỉnh Quảng Trị, gần địa giới tỉnh Quảng Bình, nơi mà Hồ Quý Ly lập ra để di dân
đến trong kế hoạch nam tiến. Vào thời chúa Nguyễn, truông nhà Hồ là chỗ giặc
cướp hung bạo ẩn náu theo địa thế hiểm trở nhiễu hại dân lành. Năm 1722 Chúa
Nguyễn Phước Chu cử Nguyễn Khoa Đăng (người vừa thành công trong việc kinh lý
chia lập các ấp thuộc từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, được thăng từ Diên Tường Nam
lên Diên Thọ Hầu) làm Nội Tán kiêm Án Sát Sứ bình định vùng này. Ông đã tìm ra
sào huyệt bọn cướp và dùng cơ mưu tiêu diệt chúng, đem lại sự bình yên cho bá
tánh.
Phá Tam Giang: Phá là một đầm
lớn và dài, nối liền nhiều con sông chảy ra cửa hẹp, cách biển bởi một đụn cát
dài. Phá là nửa biển nửa sông, gặp mưa to gió lớn thì sóng đánh dữ dội rất nguy
hiểm. Phá Tam Giang ở huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên, nhận nước của ba con
sông Tả Giang, Hữu Giang và Trung Giang, đổ ra cửa Thuận An, nay đổi tên là Hạc
Hải vì đã cạn. Ngày xưa phá Tam Giang khúc cạn khúc sâu không nhất định chỗ nào
nên việc giao thông qua đây rất nguy hiểm. Tương truyền ngày xưa phá Tam Giang
có ba con sóng thần là sóng Ông, sóng Bà và sóng Con. Khi thuyền bè qua phá, ba
con sóng cuộn lên, nếu thuyền trưởng không đốt nhang khấn vái sẽ bị nhận chìm.
Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng đã cho đào vét, sửa lòng phá làm cho việc đi lại được
bình thường. Để đánh mạnh vào sự mê tín của dân chúng, ông cho đem súng thần
công ra bắn và bảo rằng ba con sóng đã sợ, chạy mất.
Công lao của Nguyễn Khoa Đăng đã được lưu danh vào ca
dao:
Phá Tam Giang
ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ Nội
Tán cấm nghiêm.
Ôi, những người muôn năm cũ, làm quan không phải tham
nhũng hối lộ để vinh thân phì gia mà chỉ vì dân vì nước.
Cũng là chuyện thương nhau như thế, nhưng hình như
phần nào viện cớ, Phú Yên có câu:
Thương em anh
cũng muốn qua
Sợ cọp núi Lá, sợ
ma Bãi Điều.
Hai địa điểm này ở hai bên bờ sông Ba, trước đây
thuộc huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên; nay núi Lá bên hữu ngạn thuộc huyện Sông
Hinh cũng trong tỉnh Phú Yên, Bãi Điều bên tả ngạn thuộc huyện Sơn Hòa.
Núi Lá ở hướng đông nam thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn
Hòa, hướng đông bắc thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh, chạy dọc bờ sông, đỉnh
phía nam 453m, đỉnh phía bắc 303m. Nơi này ngày xưa rất nhiều cọp, như tục ngữ
nói: Cọp núi Lá, cá sông Hinh.
Bãi Điều là một vùng đất thấp ven sông, phía đông bắc
thị trấn Củng Sơn. Có người nói điều là cây điều hoang mọc nhiều nơi đây; có
người nói điều là màu đỏ, màu máu, do đã hai lần là pháp trường: một lần do Cần
Vương sát tả, một lần do quân Pháp và quân Trần Bá Lộc hành quyết các chiến sĩ
Cần Vương. Bởi vậy Bãi Điều nhiều ma. Đêm đêm những hồn ma của hai phe vẫn hiện
lên đánh đá lẫn nhau, chưa chịu xếp lại hận thù.
Ở Bình Định có câu:
Muốn về Hòa Đại,
Hiệp Luông
Sợ khe nước nóng,
sợ truông Ba Gò.
Hòa Đại và Hiệp Luông là hai địa điểm thuộc huyện Phù
Cát tỉnh Bình Định. Ở đây có suối nước nóng tự nhiên và vùng rừng gọi là truông
Ba Gò. Truông này hoang vu rậm rạp, rộng khoảng 500
mẫu (mỗi mẫu bằng nửa hecta). Truông là rừng, như truông Mây ở Bình
Định, truông nhà Hồ ở Quảng Trị, truông Thơm ở Phú Yên, v.v…
Một câu khác:
Muốn ăn bánh ít
lá gai
Lấy chồng Bình
Định sợ dài đường đi.
Bánh ít lá gai là bánh ít dùng
bột nếp, đường và lá cây gai (lấy sợi) quết nhuyễn, có màu đen. Nhân bánh dùng
đậu xanh hoặc cơm dừa nạo thành sợi nhỏ. Bánh ít lá gai không riêng của Bình
Định mà phổ biến ở Nam Trung Bộ, thường dùng dâng cúng và đãi khách trong đám
giỗ. Đám giỗ không có bánh ít lá gai là thiếu đi một phần hương vị. Khi khách
ra về, chủ nhà gởi theo chút quà, trong đó có bánh ít lá gai. Cho nên khi ông
bà cha mẹ đi ăn giỗ dặn con cháu nhỏ: “Ở nhà cho giỏi rồi ông (bà, cha, mẹ…)
đem bánh ít về cho.” Nhiều câu ca dao được thay đổi địa danh hay vài ba tiếng phù
hợp hoàn cảnh từng địa phương, từng cá nhân, ngôn ngữ dân gian gọi là bẻ. Câu này ở Tuy Hòa bẻ là:
Muốn ăn bánh ít
lá gai
Lấy chồng Đồng Cọ
sợ dài đường đi.
Đồng Cọ nay thuộc xã Hòa
Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, là bìa rìa của châu thổ, gần dãy núi Đèo
Cả, trước đây coi là xa xôi cách trở vì mùa mưa lầy lội, rất khó đi lại.
Nói chung chung, những trở ngại do thiên nhiên, không
chỉ đích danh chỗ nào thì có những câu:
Thương anh em
cũng muốn theo
Sợ truông cát
nóng, sợ đèo đá dăm.
Truông ở đây có nghĩa
là lối đi nhỏ hẹp giữa rừng. Đá dăm
là loại đá bị bể thành nhỏ, có cạnh bén, đi chân không dễ bị cắt cứa chảy máu.
Chàng trai đưa giải pháp:
Cát nóng đưa dép
em mang
Đá dăm anh lượm,
em còn than nỗi gì!
Sông nước cũng gây trở ngại. Trong thơ mới, thi sĩ
Kiều Thệ Thủy viết: Đò giang sông bến
thành ngăn trở. Không trách thời xưa:
Sông sâu sào vắn
khó dò
Muốn qua thăm bậu,
sợ đò không đưa.
Bậu là nhân vật đại
danh tự ngôi thứ nhì, tiếng để chỉ người con gái, nhất là đối tượng người con
trai đang nhắm đến, cũng nói là em bậu:
Bậu đừng đỏng
đảnh đòi lãnh với lương
Vải bô bậu mặc
cho thường mà thôi.
Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm em bậu
có chồng hay chưa.
Tương tác với bậu có tiếng qua, chỉ người con trai:
Lại gần qua nói
bậu nghe
Đừng ra cái kiểu
nửa chè nửa xôi
Một mai trúc ngã
lan quỳ
Bậu lo thân bậu,
lo gì thân qua.
Ở vùng biển thì:
Muốn về Mỹ Á ăn
dừa
Sợ con sóng lớn
nó đừa lộn ra (vô).
Mỹ Á là một thôn của
xã An Phú, nay thuộc thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, cách trung tâm thành phố
trên 10 km, nơi trên bờ nhiều dừa, dưới bến nhiều cá. Đừa là đưa mạnh, đẩy mạnh, lộn là trở lại vị trí cũ; đừa lộn ra hay
lộn vô tùy theo vị trí người đứng nói. Ở đây tuy nói sợ con sóng lớn, thật ra
phải hiểu theo nghĩa bóng. Dân Mỹ Á làm nghề biển nên có một câu khác, chỉ nói
đến sợ mà thôi:
Lấy chồng Phú Cốc
sợ beo
Lấy chồng Mỹ Á
hồn treo cột buồm.
Để tránh cái sợ sông nước bến bờ, nói thì to tát
nhưng nghĩ cho cùng chỉ là sợ tốn tiền đò, chuyện nhỏ, có người lại muốn một
cách như là thay thế Tạo Hóa:
Muốn cho sông cạn
đất liền
Kẻo đi lại sợ tốn
tiền đò ngang.
Cái sợ thứ hai là sợ lòng người:
Muốn về Soi Bún
ăn dưa
Sợ e Soi Bún đãi
đưa nhiều lời.
Soi Bún là một xóm của
làng Ngọc Lãng, cồn đất nằm giữa hai dòng sông, sông Chùa phía bắc và sông Đà
Rằng phía nam, nay thuộc xã Bình Ngọc, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Có người
nói Soi Búng, do đọc sai thành Soi
Bún rồi quen. Ở đây không có nghề làm bún. Búng là chỗ nước sâu dưới lòng sông,
lội qua dễ bị sụp búng nguy hiểm.([1]) Sông Chùa đoạn
này nước khá sâu. Làng Ngọc Lãng là vành đai xanh của Tuy Hòa, trồng nhiều loại
rau dưa, nay thêm trồng nhiều hoa và cây cảnh.
Thiên hạ đãi
đưa nhiều lời, nói vậy chớ không đáng sợ lắm. Sợ nhất là chính lòng mình:
Anh gặp em đây
cũng cảm cảnh tình thương
Muốn xe sợi chỉ
thắm, sợ vương sợi tơ mành.
Chỉ thắm là chỉ đỏ, tơ
hồng, tượng trưng cho nhân duyên tiền định, bền chặt đời đời. Muốn mà sợ, là
chưa tự tin và chưa tin bạn.
Người con gái cũng không tránh khỏi tâm trạng ấy,
trước ngưỡng cửa tình yêu và hôn nhân thường sợ cha mẹ chàng.
Và sợ cả chàng nữa:
Gặp anh cũng muốn
dan ca
Sợ mẹ bằng biển,
sợ cha bằng trời
Gặp anh cũng muốn
trao lời
Sợ chòm mây bạc
giữa trời mau tan.
Dan ca là nói đủ thứ
chuyện, vòng vo nam bắc, trên trời dưới đất, không có chủ đề gì hết. Khi yêu
nhau chuyện gì cũng nói với nhau được. Bởi vậy mới sợ mẹ sợ cha, sợ bằng trời
bằng biển chứ ít đâu! Lại sợ chàng thực thực hư hư, dễ dàng thay đổi như chòm
mây bạc. Người bình dân nói năng cũng ví von thơ mộng đâu khác các thi sĩ đại
gia. Đọc câu này sao khỏi liên tưởng đến Lý Bạch trong Đường thi:
Phù vân du tử ý /
Lạc nhật cố nhân tình.
浮 雲 游 子 意 / 落 日 故 人 情
(Ý du tử ([2]) như mây trôi nổi
Tình cố nhân như nắng chiều hôm.)
Có khi người con gái muốn vượt
qua tục lệ, muốn nhanh chóng thành đôi, nhưng sợ cho thân phận nghèo kém của
mình:
Thương anh em
muốn theo về
Sợ rằng cha mẹ
cười chê em nghèo.
Hoặc:
Muốn theo anh về
bển cho liền
Sợ cha mẹ nói con
dâu không tiền, dâu hư.
Gặp phải chàng trai nghèo, cũng sợ:
Thấy anh em cũng
muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi.
Giống ý một câu
người vợ có chồng đánh bạc, hay đem của nhà ra cầm thế, vợ van xin:
Cầm thời cầm áo cầm quần
Cầm trâu cầm ruộng, xin đừng cầm em.
Mấy anh đánh bạc khi thua, cần gỡ, thì có thứ gì mà
không đem cầm cố. Chàng trai này có vẻ biết điều hơn:
Nghèo thì bán khố
bán khăn
Có ai mà bán vợ
ăn bao giờ
Nghèo thì bán cột
bán kèo
Có ai mà bán vợ
theo bao giờ.
Có người gặp cảnh lỡ làng ngang trái, nói thật:
Thấy anh em cũng
muốn chào
Sợ rằng chị cả
giắt dao trong mình.
Chị cả là vợ cả; miền
Nói thật hơn nữa:
Chiếu bông mà
trải góc đền
Muốn vô làm bé sợ
không bền, anh ơi!
Trong khi đó cái sợ của anh này có vẻ không thật lắm:
Thấy em anh cũng
muốn chào
Sợ anh chồng cũ
giắt dao trong mình.
Thấy em anh cũng
muốn chào
Sợ anh chồng cũ
đứng bờ rào nó trông.
Chị cả, đang có quyền hành thì sợ là đúng. Còn anh chồng cũ, để nhau rồi (tức là bỏ
nhau rồi) sao lại sợ? Thấy nó đứng bờ rào
nó trông đã sợ, thật chẳng đáng mặt làm trai! Chưa biết nó có giắt dao hay
không đã sợ, thế thì che chở cho cát đằng gì nổi! Kém!
Cũng có người muốn thụ hưởng mà sợ vì làm biếng,
thiếu ý thức cần lao:
Muốn ăn hột nếp
Vườn Trầu
Sợ e tát nước giở
gàu không lên.
Vườn Trầu là cánh đồng
thuộc thôn Ninh Tịnh, xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, có loại
nếp rất ngon, thơm và dẻo. Trước đây cánh đồng này thiếu nước, phải tát bằng
gàu sòng và gàu dai, tát cả ngày, tát ban đêm nữa, rất nặng nhọc. Anh chàng này
muốn ăn mà không muốn làm, thiết tưởng nên học theo sư Đạo Thông, vị tổ thứ bảy
của chùa Đá Trắng, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, thực hiện theo phương châm của
tổ Bách Trượng,([3]) không trông đợi thập phương cúng dường mà nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực 一日不 作, 一日不食 (một ngày không làm, một ngày không ăn).
2. Thương và ghét
Tục ngữ ca dao nói về thương rất nhiều. Dạy bảo phải
thương yêu nhau, từ người trong gia đình, nội ngoại thân thích đến lân lý và
rộng ra hơn là đồng bào, nhân loại. Trong truyện Lục Vân Tiên, cụ Đồ Chiểu phân
biệt thương ghét rất rõ ràng. Nên thương ai, nên ghét ai, thậm chí ghét cay
ghét đắng ghét vào tới tâm. Tục ngữ ca dao thì không có lời khuyên ghét (vậy mà
thiên hạ vẫn ghét nhau loạn xạ tưng bừng). Chỉ có một số câu nêu cả hai vấn đề
thương/ghét, như bức ảnh chụp hai mặt phải và trái của xã hội, phản ảnh tâm lý
người đời.
Thương và ghét có một phần tính cách cho và nhận, vay
và trả, gieo và gặt, như thuyết nhân quả:
Thương người,
người lại thương ta
Ghét người, người
lại hóa ghét mình.
Có thể nói là ai cũng ý thức rõ
điều đó, nhưng ai cũng bị chi phối bởi phản ứng gần như tự nhiên, khi thương
dồn hết cảm tình cho đối tượng, nhìn thấy điểm nào cũng tốt đẹp, khi ghét thì
đổ hết ác ý và nhìn thấy chỗ nào cũng đáng chê trách:
Thương người như
thể thương thân
Ghét người như
thể đổ phân cho người.
Thương và ghét đem lại ảnh hưởng trực tiếp với những
người, những vật của đối tượng:
Khi thương thương
hết cả nhà
Khi ghét ghét hết
cả bà cả con.
Thương ai thương
cả lối đi
Ghét ai ghét cả
tông chi họ hàng.
Khi thương, cái xấu xa cũng nhìn thấy tốt đẹp. Khi
ghét thì cái tốt đẹp hóa thành xấu xa:
Khi thương quả ấu
cũng tròn
Khi ghét thì quả
bồ hòn cũng vuông.
Khi thương trái
ấu cũng tròn
Khi ghét bồ hòn
cũng méo.
Ấu là loại cây mọc
dưới bùn, trái gần như hình tam giác, giống đầu trâu có hai sừng, vỏ màu đen,
bên trong bột trắng, ăn bùi bùi. Trước đây đi qua các phà Nam Bộ như Mỹ Thuận
thấy nhiều người rao bán trái ấu luộc. Cây bồ
hòn cao từ 3 mét đến 5 mét, trái tròn, vị đắng, có chứa chất saponin dùng
gội đầu và giặt rửa.
Thương và ghét thường thể hiện qua cử chỉ, hành động,
dù nhỏ vẫn dễ dàng nhận thấy.
Khi ghét, không còn trông nhắc nhau, thậm chí gặp
nhau không chào hỏi:
Khi thương nhau ngóng
trông làu lạu
Khi ghét nhau mặt
cạu làm ngơ.
Hồi thương đụng
đâu nhắc đó
Hồi ghét bỏ xó
không nhìn.
Hồi thương đụng
đâu khen đó
Hồi ghét nói bỏ
chó không thèm.
Đụng ở đây có nghĩa
là gặp, đụng đâu là gặp bất cứ việc
gì. Nói bỏ chó không thèm là nói xấu
đến cùng cực: Người như vậy thì chó cũng không thèm. Phương ngữ Nam Trung Bộ có
khi tiếng đụng dùng để chỉ việc cưới
nhau, ăn ở với nhau, như: Hai cháu đụng nhau đã lâu chưa?
Khi ghét, giao tiếp không còn mặn nồng, không dành
cho phần hơn, phần quý:
Thương nhau cau
sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu
bổ ra làm mười.
Thông thường khi ăn trầu người ta bửa (bổ) ruột trái
cau ra sáu miếng, thương nhau bửa lớn gấp đôi (ba miếng), ghét nhau bửa ra còn
tí xíu (mười miếng).
Khi ghét, người ta thành ra ích kỷ, nhỏ nhen:
Hồi thương quạt
giấy cũng cho
Hồi ghét quạt mo
cũng đòi.
Quạt phất giấy xòe ra xếp vào dùng tiện lợi, đi đâu
thì cầm theo trên tay, còn có vẻ sang trọng nữa, hồi thương cho nhau dễ dàng. Quạt mo làm bằng mo cau, mo tre, thô
vụng, bất tiện, không tốn tiền mua như quạt giấy, mà hồi ghét thì đã cho rồi
cũng đòi lại cho được.
Ngày trước ở thôn quê nấu cơm nồi đồng, vần lên lửa
than, phần cơm trong hông thường cháy vàng, cạy ra ăn giòn, thơm, khá ngon,
nhiều người thích.([4]) Thương nhau cho nhau miếng cháy là biểu lộ tình cảm. Thế nhưng khi ghét
nhau thì bêu rếu bảo là cạy nồi, vét nồi:
Hồi thương cho nhau cơm cháy
Hồi ghét nói nhau
cạy nồi.
Chuyện vét nồi này có trong vài câu ca dao khác như:
Học trò, học trõ,
học tro
Chẳng lo ba chữ mà lo vét nồi
Học trò cầm viết
tay chiêu
Cầm đũa tay trái
vét niêu như chùi.
Chỉ có riêng trường hợp dạy con, hai việc thương/ghét
mới có nghĩa trái ngược. Thời trước người ta thường giấu kín tình cảm với con
cái, sợ con dể ngươi, lừng mặt, không nghe lời thành hư hỏng, phải nghiêm khắc
với con, đánh đòn để răn dạy, cả cha mẹ và thầy giáo cũng vậy. Cho nên, nghe
như nghịch lý:
Thương con cho
roi cho vọt
Ghét con cho ngọt
cho ngào.
3. Xa và gần
Xa và gần trên thực địa khác với xa và gần trong tâm
tưởng. Trên thực địa được đánh giá theo đơn vị đo lường, bằng dặm, bằng cây số,
hoặc ngày trước ước tính đi bộ một buổi, mấy ngày, đi ngựa bao lâu; bây giờ là
mấy phút mấy giờ lái xe, mấy giờ bay, v.v… Trong tâm tưởng trái lại khác hẳn.
Có khi thật gần trong không gian mà chẳng bao giờ giao thiệp thành ra thật xa.
Có khi thật xa trong không gian mà thương mến nhau, hay đến thăm viếng nhau,
hoặc là thường nghĩ đến nhau, thì coi như gần:
Thương nhau xa
cũng như gần
Đừng nên tham phú
phụ bần khó coi.
Tham phú phụ bần là tham nơi giàu
sang, phụ kẻ nghèo khổ, cũng không sao, nhưng mà khó coi. Ở thôn quê hai tiếng khó coi (làm như vậy khó coi, ăn ở
như thế khó coi) là một lời trách móc có phần nặng nề.
Hồi xa cách vách
cũng xa
Hồi gần cách
huyện cách nha cũng gần.
Cách vách là chung vách,
liền vách, tiếng nói lớn, tiếng động mạnh là nghe được. Bây giờ dân thành phố
sống vô cảm với nhau, cách vách cũng xa
là thường tình. Thời trước ở thôn quê tình nghĩa lân lý rất đậm đà, cách vách
cũng xa là điều đáng quan ngại về việc giao thiệp, hết tình hết nghĩa. Huyện
nha là chỗ quan lại làm việc, mỗi khi có việc rắc rối mới đến huyện nha, nên
vừa xa cách dân chúng vừa là một trở lực, ai ai cũng e ngại, ít muốn đến. Mặc
dù vậy, cách huyện cách nha là gặp
nhiều ngăn trở, coi như gần thì cứ là gần.
Có khi ca dao đưa ra địa danh cụ thể, như ở tỉnh Phú
Yên:
Hồi xa cách vách
cũng xa
Hồi gần Gò Duối,
Hòa Đa cũng gần.
Hai nơi này cùng nằm dọc con đường chính, thời ấy gọi
đường quan báo, đường thiên lý, bây giờ là quốc lộ 1A, cách nhau khoảng 50 km.
Ban đầu cùng trong huyện Đồng Xuân, bởi lãnh thổ rộng nên chia ra huyện Đồng
Xuân và phủ Tuy An. Rồi huyện Đồng Xuân còn lại lại chia ra huyện Sông Cầu. Thời
xưa, Gò Duối, Hòa Đa đi bộ cả ngày đường.
Gò Duối nay thuộc xã
Xuân Lộc, huyện Sông Cầu, trước năm 1945 là một trong hai nơi sản xuất nhiều
lụa trong tỉnh, bán đi khắp nơi (làng kia nổi danh hơn là làng Ngân Sơn, tức
Phường Lụa, huyện Tuy An).
Hòa Đa nay thuộc xã An
Mỹ, huyện Tuy An, thổ nghi hợp với các loại đậu hạt, bông vải, rau dưa, và là
một trong hai làng bánh tráng cũng bán đi khắp nơi (làng thứ hai là làng Đông
Bình, huyện Phú Hòa).
Đến Quảng
Dù xa chỗ ngõ
cũng xa
Dù gần vĩnh Điện,
La Qua cũng gần.
Vĩnh Điện, La Qua là những địa
danh đã đi vào lịch sử, lưu giữ bao ký ức đẹp trong lòng nhiều người, tại địa
phương và từ nơi khác đến đây.
Thị trấn Vĩnh
Điện, huyện Điện Bàn nằm trong trục tam giác Đà Nẵng – Hội An – Tam Kỳ, là
trung tâm đầu mối giao thương khá phồn thịnh phía bắc tỉnh Quảng
Làng La Qua
thuộc xã Điện Minh, huyện Điện Bàn, ngày xưa trong thành La Qua. Có câu nói
vui: Qua qua La Qua, qua hôn qua hít, qua
vít qua véo, qua chọc qua ghẹo, biểu em đừng la qua.
Theo Đại Nam Nhất
Thống Chí, tỉnh thành Quảng Nam xưa còn gọi là thành La Qua hay La Thành;
năm Minh Mạng thứ 14 dời đến xã La Qua, huyện Diên Phước, đắp bằng đất; năm
Minh Mạng thứ 16 xây gạch. Thành có bốn cửa: Nam môn (cửa Tiền) có kỳ đài cao;
Bắc môn (cửa Hậu) trông ra sông Vĩnh Điện; Tả môn nhìn về hướng đông; Hữu môn
là nơi nhộn nhịp nhất vì dân chúng phần lớn đều đi qua đây. Khi đường bộ phát
triển, con đường thiên lý bắc nam đi qua Vĩnh Điện cách tỉnh thành La Qua 500 mét
hướng Hữu môn, đã tạo thêm sự sôi động cho vùng này.
Gò Duối và Hòa Đa (Phú Yên) cách xa nhau. Câu ca dao
trên áp dụng cho nhiều người và cho những ai ở Gò Duối nhìn vào, nói với Hòa Đa;
những ai ở Hòa Đa nhìn ra, nói với Gò Duối.
Vĩnh Điện và La Qua (Quảng Nam) thì trái lại, hai nơi
ở gần sát nhau, nên câu này chỉ áp dụng cho những ai ở xa Vĩnh Điện, La Qua,
ngỏ ý rằng khi cảm thấy gần, muốn gần và cần gần thì dù ở xa như tận Vĩnh Điện,
La Qua cũng gần.
Nói đến xa và gần cũng nên nhắc đến lời của người bạn
trai nói với người bạn gái xuất giá, chỉ nhắc bạn bổn phận khi mai sau cha yếu
mẹ già, nhưng ngầm tỏ rằng ta đây chính là chỗ gần mà bạn không lựa chọn:
Con chim đa đa
đậu cành đa đa
Chồng gần không
lấy, lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Bát cơm ai đỡ, chén trà ai dưng.
Chim đa đa là con gà gô, gà
sao, gà cơm cát, sống nơi gò đồi tranh đế, những buổi trưa cất tiếng gáy “chát
cha chát chát cha cha” nghe như xé lòng.
Cành đa đa còn gọi là tha đa,
một loại cây dẻo và chắc, thường dùng làm cánh ná (nỏ), đầu ná thì dùng cây
lòng mức: Đầu lòng mức, cánh tha đa.
Và tâm sự cha mẹ khi
gả con:
Có con mà gả đi xa
Cũng như heo nái cọp tha về rừng
Có con mà gả chỗ gần
Có bát canh cần nó cũng bưng sang.
Có con mà gả đi xa
Một là mất giỗ, hai là mất con
Có con mà gả chỗ gần
Nửa đêm nhớ mẹ, ở trần chạy qua.
4. Vui và buồn
Trong thất tình của
con người, vui buồn, thương ghét chiếm phần quan trọng. Ta có thể giảm bớt giận
hờn, ham muốn… nhưng nếu có ít ghét thì cũng còn nhiều thương và vui buồn luôn
luôn tự tại.
Những vui buồn ấy trong lòng ta luôn luôn lan ra
ngoại cảnh, đôi khi mượn cảnh giải sầu, tuy vậy thường thấy:
Khi vui non nước cũng vui
Khi buồn sáo cặp
kèn đôi cũng buồn.
Cụ Tiên Điền viết “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ” là vậy. Khi ta vui, thấy đâu cũng cũng vui,
cây cỏ xanh tươi, nước non đẹp đẽ, khi ta buồn thì dù có đàn sáo tưng bừng cũng
cứ buồn.
Có ngàn lẻ một lý do để vui, ngàn lẻ một lý do để
buồn. Lý do thực tế chiếm tỷ lệ không nhiều lắm. Như lời than của một cô gái
làm dâu. Vui cũng hóa buồn:
Làm dâu khổ lắm
chị em ơi
Vui chẳng dám
cười, buồn chẳng dám than.
Điều đáng nói là nhiều khi kịch bản này tái diễn, khi
cô dâu ấy đã thành mẹ chồng…
Khi vui, thói thường ta hay ba hoa đủ điều, kể chuyện
này, nói chuyện kia, khi buồn thì ủ rũ, ngồi một đống từ bi:
Khi vui thì miệng
lép bép
Khi buồn con ruồi
đậu bên mép không hay.
(Có bản hai tiếng cuối là: không xua, không đòi.)
Người điềm tĩnh hơn có cái vui nhẹ nhàng, không biểu
lộ nhiều, không khoa trương, và cái buồn sâu sắc, muốn quên hết những hệ lụy
với cuộc đời:
Khi vui ngồi ghế
gảy đờn
Khi buồn muốn dứt
nghĩa nhơn cho rồi.
Bây giờ nói đánh
đàn, tiếng đánh e không sát lắm, xưa nói gảy đờn, khảy đờn, vì dùng móng tay gảy hoặc miếng phím khảy lên
dây đờn chứ nào có roi vọt đánh đập gì đâu!
Khi vui thì muốn
sống dai
Khi buồn muốn
thác ngày mai cho rồi.
Tại sao muốn
thác ngày mai mà không muốn thác ngay lập tức. Bởi vì ta đang buồn, có
nghĩa là còn đang suy tính, nghĩ xa nghĩ gần, nghĩ đi nghĩ lại Muốn thác ngay
lập tức là tuyệt vọng rồi, đâu phải là buồn!
Đôi khi khách quan, tự ví mình như giếng nước bên
đường. Ở miền núi có nhiều giếng nước bên đường, loại giếng công cộng hoang sơ,
như một vũng nước cạn, người và dã thú, cả ác thú dùng chung khi đi ngang qua.
Lòng giếng như soi thấu lòng người, hiểu thiên hạ qua cử chỉ, hành động:
Em như giếng nước
bên đường
Người vui rửa mặt,
người buồn rửa chân.
Người vui thường cảm nhận mình đang sảng khoái nên
dùng nước rửa mặt để thêm nhẹ nhàng, thãnh mãnh, và do tôn trọng tha nhân, còn
nghĩ đến kẻ sau nên không rửa chân. Người buồn, mang tâm trạng chán chường,
chẳng muốn chăm sóc diện mạo, lại coi thường tất cả nên liền thò chân xuống
giếng để rửa. Đơn giản qua cách miêu tả đã có phân tách tâm lý tế nhị.
Đôi khi, có người tỏ ra quân tử trượng phu, cầu mong:
Ngó lên trời chớp
mưa nguồn
Bao nhiêu vui về
bạn, bao nhiêu buồn về ta.
Cảnh trời chớp
mưa nguồn, thoáng nghe tưởng là cảnh vui, nhưng khi chứng kiến mới thấy đó
là một cảnh buồn: mây giăng đen xám chân trời đỉnh núi, từng luồng chớp xé sáng
không gian, buồn lắm, mong tất cả nỗi buồn ấy về ta để tất cả nỗi vui về bạn,
tất nhiên không thể nào thực hiện được, vẫn là ý nghĩ tốt đẹp.
Chuyện buồn như trên là kiểu Xuân Diệu đại gia:
Hôm nay trời nhẹ
lên cao
Tôi buồn không
hiểu vì sao tôi buồn…
Trời nhẹ lên cao thì có chết ai
đâu, có ảnh hưởng tới hòa bình thế giới đâu, vậy mà buồn, thật không hiểu được.
Đó là loại buồn vu vơ, đừng hỏi tại sao. Đó là cái buồn người đời bảo là của
nghệ sĩ, mà người đời có ai không phải là nghệ sĩ đâu. Dân
Nhất là trong cảnh cảm thấy rất đỗi cô đơn:
Ngó lên ngó xuống
thời vui
Ngó qua ngó lại,
ngậm ngùi buồn thương.
Ngó lên ngó xuống là ngó trời ngó
đất, trời cao đất rộng, vui thật. Ngó qua
ngó lại là ngó cuộc đời, ngó chung quanh mình để chạnh nghĩ về thân phận
mình. Ta lẻ loi trong khối nhân sinh đông đảo, ta lạc lõng giữa thiên hạ ồn ào.
Ta giấu kỹ cái ta mà cái ta vẫn hiển hiện. Thật ngậm ngùi!
Tạm
kết
Bàn tản mạn về ca dao, A&B, còn nhiều nữa, những
ước muốn và sợ sệt, những vui buồn, thương ghét, xa gần… Những phạm trù đối lập
trong lòng ta với cuộc đời này còn nhiều nữa, ca dao chỉ ghi nhận một phần,
người đi thu nhặt chỉ gom góp được một phần càng nhỏ bé, ít ỏi.
Thu nhặt để làm gì, để vui và buồn chăng? Người làm
việc này cũng không hiểu mục đích của mình, vì không có mục đích gì hết. Con
tằm nhả tơ là chuyện Trời bảo nó, nó không nhả tơ cho bất cứ loài vật nào. Con
người bắt con tằm phải chết để dùng tơ làm gì là chuyện khác. Ai khiến nó biết
nhả tơ? Cũng tại Trời cả!
Tựu trung người làm việc này cảm thấy đây cũng là một
việc giỡn chơi, trong toàn bộ kiếp sống giỡn chơi của mình. Vâng, cuộc đời
riêng vốn là giỡn chơi, trôi nổi qua những tháng năm tang thương biến đổi, sống
cứ y như là làm nháp, nay phải sửa chỗ này, mai phải sửa chỗ nọ, cho hợp thời
cuộc, xem lại giống như bài tập làm văn bị thầy phê là bố cục lỏng lẻo, phân
đoạn rời rạc. Ta hôm qua và ta hôm nay tưởng như hai phần của hai kẻ khác,
không có chuyển mạch, không có liên từ. Vậy chỉ có cái chết là thật chăng?
Các nhà tâm linh siêu hình cho rằng chết chưa phải là
hết, còn thiên đàng, địa ngục, còn luân hồi, kiếp sau. Tệ lắm thì làm con vật
chuộc tội, cái mũi côn trùng, cái gan con chuột, con ngựa, con heo, con gà;
nhưng bản thân chưa trải nghiệm, chưa chết thử, chết nháp lần nào (chết hụt thì
có, nhưng hụt là chưa), không có niềm tin nơi cõi vô minh huyền bí, cứ luôn cho
rằng cái chết là thật, là hết, ta không còn biết gì nữa, vui và buồn, thương và
ghét, những tham sân si tục lụy… nên tuy sống là giỡn chơi vẫn luyến tiếc, vẫn
rất thương ta và thương đời, thương giấy mực.
Đành cám cảnh nghĩ rằng:
Cuộc đời, ơi hỡi,
thương nhau lắm
Mà sống như là để
giỡn chơi…
Tuy Hòa, tháng 9-2008
(Tiết Bạch Lộ năm Mậu Tý)
TRẦN HUIỀN ÂN