TÌNH
NGHĨA GIÁO KHOA THƯ
SƠN NAM
Thầy xã trưởng đáp:
- Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương
ấp đòi tên đó tới công sở...
Thầy phái viên nhà báo Chim Trời giựt mình.
- Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý
độc giả thân mến gần xa.
Thầy xã hỏi:
- Phái viên là gì vậy thầy?
- Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu
tiền.
- À! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu
tiền của nhà báo hả? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là
có mặt nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả
tiền!
Thầy phái viên cố nén sự bực tức
khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi; thầy hút thuốc
suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh.
Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức
là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây, thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi
tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc
giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo!
Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du
Hậu Giang này quá! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc
giả nọ:
- Không phải tôi đi đòi tiền! Tôi đi dò hỏi ý kiến
bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý
hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó.
Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gật đầu:
- Ðược. Ðể tôi biểu thằng trạo ([2]) chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè
chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục
Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện
Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Áo, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí
lối nói lảng qua chuyện Tàu...
Thầy phái viên tò mò:
- Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chữ nho?
- Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích
người học trò nghèo tên là người Thừa Cung gì đó... chăn heo;([3]) ông quan đại thần Lý Tích đích
thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu.([4]) Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi!
Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái
gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ...([5])
Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba
bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con
nít:
- Hay quá! Hay quá! Tôi thăm ông độc giả đó mới được.
Ổng làm thầy giáo hả thầy? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen! Ừ! Ừ!
Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ: “Ông phái viên này
kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình
không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi
cho biết mặt.”
Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa
thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi
đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng:
- Ờ! Ðể coi. Các anh hãy trông người kia đi ngoài
đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia,
múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng
vậy, Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng, Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư... Sách này
do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ
Thận soạn... Eo ơi! Cái tuổi thơ ấy đó nay còn đâu.
Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời! Chiếc tam bản
nhún xuống một cái “ồ” rồi nhảy tới một cái “sạt” theo nhịp chèo hai chèo. Nắng
chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra,
quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ.
Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như
trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Anh trạo chèo một chèo, nghiêng mình
bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên
bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề
ngang.
Anh trạo mỉm cười:
- Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn
queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như
cộ kéo lúa...
- Chú trạo biết rành nhà Tư Có không?
- Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn
ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long [Vĩnh Long] xuống đây tính bề dạy học mà xin
phép chưa được...
*
Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng
trui, uống rượu “ông cọp”. Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ
một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò.
Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất
tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp
căn chòi nhỏ hẹp.
Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:
- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở
ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá
đó.
Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón
rén giở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên:
- Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết.
Tư Có đáp:
- Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết.
Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều
quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này
chưa cất nổi cái trường học.
Thầy phái viên trố mắt:
- Vậy à? Còn mấy làng khác?
- Ðông Thái, Ðông Hòa, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông...
không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi...
- Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo
Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư?
- Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn
“đăng” giùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem
cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái
trương Văn Uyển, có bài thơ bát cú của cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá
lẽ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận...
Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới
giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp:
- Nhà báo Chim Trời đông người không thầy? Chắc là
lớn lắm? Làm sao mà thành chữ được.
- Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b.
- Trời thần ơi! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là
thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần
rộ ngày đêm.
Thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của tòa
soạn, gật đầu lần nữa.
- Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm, phải không thầy
phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt
thơ bát cú, tứ cú. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là
sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, thầy còn nhớ không?
Thầy phái viên cười:
- Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca
rê”, tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc mình
sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây
mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.
Tư Có nói:
Rồi chú đọc một hơi:
- Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ
quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: Ông
đi du sơn du thủy...
- Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch
mới trả lời: Ở chốn quê hương... từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường
khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan...
Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đóng
áo dài.
- Thì hình nào cũng khăn đóng áo dài. Trừ ra cái hình
thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: Ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng
lắm chứ.([7])
Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:
- Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi
ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt
trông bướm lượn trên đám cỏ...
Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ:
- Hay quá! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương
như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có
hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy
cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng
éc...([8])
Tư Có vỗ trán:
- Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương: Trời
nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ
nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà
bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, trầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào
đây, sợ có người vấp nữa chăng.([9])
Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ:
- Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài
chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng
khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ: Ở bầu thì tròn, ở ống
thì dài.([10])
Tư Có gật đầu:
- Ðó là ngụ ý răn đe gương tốt thói xấu. Phải siêng
năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách; đừng lười biếng như thằng Bính
đánh vòng.([11]) Phải bền chí học hành. Ờ, thầy
phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi. Văn chương nghe như đờn Nam Xuân:
Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ
lớn, vậy mà dây cứa mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu
cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy...([12])
*
Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim.
Tuổi của họ đã quá ba mươi! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa
mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì: Kẻ
mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ.
Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe
những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa
võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành
kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày “năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi
không... lêu lổng nữa”. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ
lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong
ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo
phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để
chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá
cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây
thước bảng...
Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như
một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo
hiệu giờ vào lớp.
Giọng Tư Có nói nhỏ:
- Ngủ chưa, thầy phái viên?
Thầy phái viên yên lặng. Trời mới mưa, các chỗ trũng
đầy nước cả nên cóc và nhái kêu inh ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... và
rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành
đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy băng ra biển. Ừ, họa
chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại
nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khoái mỉm cười ngồi dậy hỏi:
- Ngủ chưa anh Tư?
- Chưa!
- Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà,
mà không thấy mệt.
Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau
một tiếng thở dài:
- Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt
tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền.
- Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau...
- Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật
ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng”
là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để
dành về sau cho đủ bộ.
- Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu
lâu dò nơi mục Thư Tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo
đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác.
Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài
cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động:
- Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya
nghe chồn cáo, cộc kêu, thầy đừng giựt mình. Ở đây miệt rừng, không có... xa xa
thì nghe tiếng chó sủa trăng.
Thầy phái viên cười giòn, tưởng tượng cái cảnh biệt
ly ngày mai. “Ôi! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!” Vĩnh
biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao vọng cổ, nhưng
thầy chưa muốn nói ra, giờ này.
SƠN
NAM
([1]) thầy: Ở miền Nam thời xưa, những người
có ăn học, biết chữ nghĩa, hoặc giữ một chức vụ nào đó, dù không dạy học đều
vẫn được gọi là thầy. Thí dụ: thầy bói, thầy cai, thầy chùa, thầy cúng,
thầy hương quản, thầy ký, thầy lang, thầy pháp, thầy thuốc, v.v…
([3]) Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận soạn, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (sách tập đọc và tập
viết) lớp Dự Bị. Hà Nội: Nha Học Chính Đông Pháp xuất bản, 1939. Bài 17 (Chuyện Người Thừa Cung) có nội dung như
sau:
Thừa Cung nhà nghèo, mồ côi cha từ lúc hãy còn nhỏ. Khi mới lên tám,
làm nghề chăn heo để nuôi thân. Trong làng có ông Từ Tử Thịnh mở tràng [trường] dạy học, học trò xa gần
đến học đông lắm. Thừa Cung cứ mỗi khi chăn lợn qua tràng, [nghe] thấy tiếng giảng sách, thì đứng lại nghe,
trong lòng lấy làm vui thích lắm, muốn đi học. Sau anh ta xin đến ở nhà học [nhà
thầy giáo cũng là trường học] để dọn dẹp,
quét tước. Từ Tử Thịnh thấy Thừa Cung mặt mũi khôi ngô, thuận cho ở. Lúc rảnh
việc, anh ta chỉ chăm chăm chúi chúi học hành. Được vài ba năm Thừa Cung thành
một người học trò giỏi, có tiếng thời bấy giờ.
([4]) Lý Thế Tích 李世勣 (khoảng 594-669),
tự Mậu Công 懋功, là một trong các danh tướng,
công thần đầu nhà Đường (Trung Quốc). Ông nguyên họ Từ 徐, dưới triều Đường Cao Tông được mang họ vua (quốc tính) nên gọi là Lý
Tích 李.
Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn
Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận soạn, Quốc
Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng. Hà Nội: Nha Học Chính Đông Pháp xuất bản,
1948. Bài 4 (Lòng Kính Yêu Chị) có nội
dung như sau:
Ông Lý Tích làm quan to đời
xưa. Ông đã già mà vẫn yêu kính chị một cách khác thường. Một hôm, bà chị ốm,
ông thân hành đi nấu cháo cho chị ăn, chẳng may gió quạt ngọn lửa cháy cả râu.
Bà chị nói rằng: “Nhà thiếu gì đầy tớ mà em lại khổ thân như vậy?” Ông đáp lại
rằng: “Nay chị đã già, mà em cũng già rồi, dẫu em muốn nấu cháo cho chị ăn mãi,
phỏng đã dễ mà được hay sao?”
Một người như ông Lý Tích,
làm quan quyền quý bao nhiêu mà yêu chị như thế, thật đáng khen thay!
([5]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư lớp Sơ Đẳng. Hà Nội: Nha Học Chính
Đông Pháp xuất bản, 1948. Bài 10 (Người
Say Rượu) có nội dung như sau:
Các anh hãy trông người kia đi
ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo
bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm, chốc lại ngã chúi một cái. Lũ trẻ
đi theo sau, reo cười chế nhạo. Thỉnh thoảng anh lại đứng lại, nói những chuyện
gì ở đâu đâu. Người qua lại, trông thấy cũng phải tránh xa.
Người ấy vừa ở hàng rượu ra. Chỉ
tham mấy chén rượu mà thành ra say sưa, mất cả tư cách con người, có khi như là
con vật vậy, thật là đáng khinh bỉ.
Hỡi các anh, các
anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên lấy đó làm gương mà giữ mình.
([6]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 33
(Chỗ Quê Hương Đẹp Hơn Cả) có nội dung như sau:
Một người đi du
lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến
chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: “Ông đi du sơn du thủy, thế tất đã trông thấy
nhiều cảnh đẹp. Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?” Người du lịch đáp lại rằng:
“Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động,
vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất
cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc
khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể
không sao xiết được.”
([7]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 31
(Chăn Trâu) có nội dung như sau:
Ai bảo chăn trâu
là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Ðầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa. Ngất nghểu ngồi trên mình
trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ. Trong
khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn
gì vui sướng cho bằng.
([8]) Quốc Văn Giáo Khoa Thư (sách tập
đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 25 (Nên
Giúp Đỡ Lẫn Nhau) có nội dung như sau:
Trời nắng to. Đường đi dốc. Một
ông lão đẩy cái xe lợn. Trên cái xe có ba bốn con lợn to, chân trói, bụng phơi
và mồm kêu eng éc. Ông lão cố đẩy cái xe, mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy, mà xe vẫn
không thấy chuyển.
Mấy cậu bé đang chơi trên bờ đê,
thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo hộ.
Xe lên khỏi dốc,
ông lão cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui lòng, vì đã giúp được việc
cho người.
([9]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 11
(Khuân Tảng Đá) có nội dung như sau:
Trời nhá nhem tối. Tôi thấy một
ông cụ già hì hục khuân một tảng đá, nhắc lên, để xuống đến bốn năm lần, mới
đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy. Tôi lấy làm lạ, chạy lại hỏi,
thì ông cụ vừa thở vừa nói rằng: “Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy [trầy] cả
chân đau lắm. Nên lão khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng.”
Tôi thấy nói, lấy
làm nghĩ. Ông cụ già chịu nhọc mình một chút, để đỡ cho người đi đêm trên con
đường không vấp phải tảng đá, cũng là một việc làm phúc đáng khen vậy.
([10]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 10
(Chọn Bạn Mà Chơi) có nội dung như sau:
Thói thường “Gần mực thì đen…”
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những người lêu lổng chơi bời,
Cùng là lười
biếng, ta thời tránh xa.
([11]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 23
(Học Trò Lười Biếng) có nội dung như
sau:
Bính là một đứa học trò lười
biếng. Sáng ngày dậy trưa nên đi học trễ, mà tiếng rằng đi học, nhưng chẳng mấy
khi nó thuộc bài và làm đủ bài. Khi nó ở nhà cha mẹ sai làm việc gì, thì tìm
đường trốn tránh. Cả ngày chỉ thích chơi bời lang thang ở ngoài đường ngoài
ngõ,
Cha mẹ nó đánh
mắng luôn và thầy giáo cũng quở phạt luôn. Nếu nó cứ lười biếng như thế mãi,
thì về sau chắc sẽ phải khổ suốt đời. Những người lười biếng thì không làm gì
nên thân. Ta chớ nên lười biếng.
([12]) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư (sách tập đọc và tập viết) lớp Dự Bị. Bài 43
(Ta Không Nên Ngã Lòng) có nội dung
như sau:
Nước mềm, đá cứng, thế mà nước
chảy mãi, đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cứa mãi gỗ cũng
phải đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ.
Người ta cũng vậy, phàm làm việc
gì dẫu thấy khó cũng đừng nên ngã lòng. Gặp việc gì khó, ta cũng cứ vững lòng
mà làm, cứ cố vào, cố nữa, cố luôn mãi, thì việc dẫu khó đến đâu, cũng có ngày
ta làm nên được.
Những kẻ hay ngã
lòng chẳng bao giờ làm được việc gì cả.