Thứ Năm, 8 tháng 9, 2016

ĐĐVU 19 / TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CAO ĐÀI / Diệu Nguyên

Hôm nay, tất cả huynh tỷ đệ muội chúng ta cùng chung vui với Ban Cai Quản và bổn đạo thánh tịnh Ngọc Minh Đài về những thành quả mà quý đạo hữu nơi đây đã đạt được trong thời gian qua trên bước đường tu công lập hạnh và hành đạo phụng sự nhơn sanh.([1])
Chúng ta cũng nhớ lời dạy của Đức Giáo Tông Đại Đạo:
Thượng Đế vì nhân sanh mà lập Đạo. Còn thánh thất thánh tịnh là nơi để thờ phượng, cũng là nơi để tụ họp, với những hoạt động đạo đức, ích lợi nhân sinh. (…) Nếu chùa thất đóng cửa kín đáo, giữ gìn trang nghiêm, mà không có những hoạt động đạo đức thiết thực giúp đời, chẳng khác nào món đồ cổ để triển lãm, trái với tôn chỉ của Thượng Đế khai Đạo.([2])
Đức Bảo Hòa Thánh Nữ dạy:
Chúng sanh còn khổ nạn là chính mình chưa đủ đầy bổn phận thiêng liêng, cần phải hòa mình độ chúng.([3])
Thế nên, cứ mỗi lần dự lễ kỷ niệm ngày thành lập của một thánh sở Cao Đài (như hôm nay) hoặc kỷ niệm ngày Khai Minh Đại Đạo, chúng ta lại nhớ đến lời dạy của Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh, Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1986), nhân dịp kỷ niệm sáu mươi năm ngày Khai Minh Đại Đạo:
Nhắc đến sứ mạng đối với Đạo, bản thân Bần Đạo đòi phen ([4]) tủi hổ với Đức Chí Tôn. Sáu mươi năm hành đạo tuy kết quả có đôi phần, nhưng chưa đối xứng ([5]) với cơ tận độ Kỳ Ba, với muôn ngàn nhân sinh còn lặn hụp trong trần thế. (…) Mỗi lần lễ Khai Minh Đại Đạo là mỗi lần Bần Đạo càng thêm trách nhiệm nặng nề...([6])
Nỗi niềm ưu tư của Đức Giáo Tông Đại Đạo – Người Anh Cả Vô Vi của hàng môn đệ Đấng Cao Đài – khiến cho chúng ta không thể chủ quan hay bằng lòng với những gì mà mình đã làm được cho Đạo, cho đời, cho nhơn sanh, nhất là trước thực trạng thế giới nhơn loài vẫn còn đầy dẫy những bất công, khổ nạn và đau thương. Lời dạy của Đức Giáo Tông nhắc nhở người môn đệ Cao Đài phải luôn nhớ đến trách nhiệm nặng nề mà Đức Thượng Đế đã phó giao, đó là trách nhiệm đem đạo lý cải hóa nhơn tâm.
Đức Quan Thánh Đế Quân dạy:
Đã sanh vào cõi vô thường, mỗi điểm chơn hồn mang nhục thể vào đời đều có mang một sứ mạng để tự tu tự tiến và giúp cho bộ máy thiên luân trong cuộc điều hành vũ trụ. Những điểm chơn hồn đó tuy căn trí có khác nhau từ các hàng đại giác nguyên căn cho đến hàng phàm phu tục lụy, nhưng mỗi mỗi đều có sứ mạng và nhiệm vụ của nó, giống như từng con ốc, bánh xe, cái chốt trong bộ máy toàn thể.
Đừng ai tối tăm nghĩ rằng sự sống đơn phương riêng rẽ của mình không liên hệ gì với sự sống đại thể của muôn loài vạn vật rồi tự đi tìm lối rẽ thụ hưởng riêng tư trong phạm vi nhỏ hẹp, vị kỷ vị thân.([7]) Đời nhơn sanh đang khổ lụy cũng vì sự mê nhận ấy. Thế nên lòng từ bi của Đấng Chí Tôn Thượng Đế đã mở Đạo suốt trong ba thời kỳ, cốt ý là để cảnh tỉnh cho thế nhân giác ngộ về cái lý ấy để hầu phụng sự Thiên cơ cho hợp tình hợp đạo, tự cứu và cứu tha.([8])
Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn phân tích nguyên nhân gây ra bao thảm trạng cho thế giới nhơn loại ngày nay như sau:
Sở dĩ nhơn loại ngày nay sống trong cảnh bi đát tang thương, đứng kề bên vực thẳm, là vì đã hiểu sai chơn lý của vũ trụ và Thượng Đế. Nếu ai ai cũng sống ích kỷ thì phải hại nhơn. Nếu nhơn loại sống một đời sống vị tha vong kỷ, thì ở nơi trời sẽ được mưa thuận gió hòa; ở nơi đất quả hoa thạnh mậu, thảo mộc xinh tươi; còn ở nơi người thì tình thương yêu đùm bọc, kẻ khôn dìu kẻ dại, người giàu bảo trợ người nghèo, kẻ no chia phần kẻ đói, người mạnh che chở người yếu thì thế gian nầy sẽ là cảnh thiên đường cực lạc, đâu còn cảnh tang tóc khốc hại như ngày nay.([9])
Chúng ta thấy rằng các lời thánh giáo vừa dẫn trên đều phản ánh hoàn toàn chính xác thực trạng của thế giới nhân loại ngày nay: Con người đang đứng trước những vấn nạn về môi trường sinh sống như tình trạng biến đổi khí hậu do nạn phá rừng bừa bãi cộng với khí thải nhà kính từ các nhà máy công nghiệp khiến cho trái đất càng ngày càng nóng lên. Các nhà khoa học dự đoán rằng đến cuối thế kỷ 21 băng ở Bắc Cực và Nam Cực sẽ tan chảy, làm cho mực nước các đại dương dâng cao và nhấn chìm các thành phố lớn trên thế giới như Melbourne, Sydney, New York, London, v.v… Bên cạnh đó, các nhà máy không ngừng xả thải ra môi trường thiên nhiên các chất thải công nghiệp độc hại gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường sinh thái, nguồn nước sinh hoạt và mang lại biết bao tật bệnh cho con người. Các nhà khoa học cũng dự đoán rằng đến năm 2070, thế giới sẽ không còn đủ nước sạch để ăn uống và sinh hoạt, lúc bấy giờ chiến tranh sẽ xảy ra, không phải vì tranh giành tài nguyên thiên nhiên biển bạc rừng vàng mà vì tranh giành nguồn nước. Ngoài ra, ngày nay con người còn đứng trước thảm họa khủng bố giết người hàng loạt của những con người cuồng tín kỳ thị tôn giáo… Riêng đất nước ta hiện nay còn có thêm vấn nạn thực phẩm bẩn tẩm ướp đầy các loại hóa chất độc hại gây bệnh nan y cho con người...
Tất cả những vấn nạn lược kể đó đều phát xuất từ lối sống thiếu đạo đức, đầy lòng tham dục và ích kỷ hại nhơn của phần lớn nhân loại ngày nay.
Thuở xưa, vào đời Nghiêu Thuấn, nền văn minh khoa học chưa phát triển, cuộc sống thiếu thốn tiện nghi, nhưng xã hội vô cùng an bình hạnh phúc trong cảnh tối ngủ nhà không đóng cửa, ngoài đường không lượm của rơi (gia vô bế hộ, lộ bất thập di)… Ấy là nhờ con người biết sống trong khuôn phép đạo lý làm người, vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con.
Còn ngày nay, nền văn minh nhân loại phát triển tột bậc, đầy đủ mọi tiện nghi tân kỳ tinh xảo, con người có thể xây dựng các tòa cao ốc chọc trời, chế tạo các phi thuyền không gian chinh phục cả sao Hỏa… thế nhưng cuộc sống con người lại vô cùng bất an, bao nhiêu thảm họa đang rình rập chực chờ… Đó là vì con người ngày nay đã đánh mất đạo đức và lương tri: Người làm quan chức nhà nước thì tham ô hối lộ, cha không hiền, con không hiếu, vợ chồng không tương kính, bằng hữu không chơn thật với nhau…
Đức Vân Hương Thánh Mẫu dạy:
Những gì đã hoại diệt là vì xa Thượng Đế, xa Đạo đó các em.
(…)
Nghìn xưa, các bậc Thánh Nhân không nói đến chính trị ở thiên hạ mà luôn luôn nói đến chính trị bản thân, không nói đến đời sống cá nhân mà nói đến đời sống của thiên hạ, nhờ vậy nhà yên nước trị, dân lạc nghiệp an cư. Thời bây giờ đâu còn nữa, vì thiên hạ là thiên hạ đã quên mất cái Thánh Nhân rồi! ([10])
Lời dạy này của Đức Vân Hương Thánh Mẫu khiến chúng ta nhớ đến tấm gương của các bậc trung thần thuở xa xưa.
Danh sĩ Tô Thức (1037-1101) hiệu Đông Pha cư sĩ, làm quan đời nhà Tống (Trung Quốc), là một trong bát đại gia (tám tác giả lớn nhất Trung Quốc suốt từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13),([11]) là một Phật tử, đọc nhiều kinh Phật, và là bạn thân thiền sư Phật Ấn. Ông có tấm lòng bác ái và rất mực yêu thương dân chúng, không tham ô hối lộ, do đó làm quan nhưng sống hết sức thanh bần, có lúc nhà không đủ thức ăn, người nhà ông phải lén đi hái rau dại về ăn độn. Ông tự trách mình làm quan học rộng mà không đủ tài đức để cho bản thân và dân chúng phải chịu đói khổ.
Quan đại thần Phan Thanh Giản (1796-1867) dưới triều Nguyễn ở nước ta là một vị quan cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm và hết mực yêu thương dân chúng. Lúc ông đi trấn nhậm xa nhà, vợ cưới hầu thiếp gửi ra để chăm sóc cho ông nhưng ông nhứt định chối từ, luôn sống một cuộc sống thanh bần giản dị. Khi vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cho biết sẽ đến vùng ông trấn nhậm để dạo xem phong cảnh, ông liền dâng sớ cản ngăn vì thương dân chúng đói khổ mà lại còn phải phục dịch cho vua và đoàn tùy tùng, mặc dù ông biết rằng điều này sẽ khiến nhà vua phật ý, mất lòng, trừng phạt mình. Ông từng bảo: “Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.”
Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763/1764?-1832) khi được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Tổng Trấn thành Gia Định hết sức quan tâm chăm lo đến đời sống dân chúng. Ngài cho lập các cơ sở từ thiện để nuôi nấng, dạy chữ và dạy nghề cho các cô nhi quả phụ không nơi nương tựa. Ngoài các đức tính cương trực, thanh liêm, nhân hậu, thương dân, Đức Lê Văn Duyệt còn có tinh thần hòa đồng tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng của người dân thể hiện qua việc ngài từ chối thi hành chỉ dụ của triều đình về việc cấm đạo, bắt đạo, sát hại người theo đạo Thiên Chúa. Ngài cũng chủ trương hòa hợp dân tộc, không phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số hoặc di dân người Hoa. Ai hết lòng cho công cuộc phát triển xứ sở thì đều được hưởng đủ quyền lợi như dân bản xứ, được chánh quyền bảo trợ, tạo điều kiện làm ăn sinh sống, an cư lạc nghiệp. Nhờ đó Ngài tạo được khối đoàn kết dân tộc, ổn định cuộc sống dân chúng và mở mang đất Gia Định thành một vùng trù phú, an bình và hạnh phúc. Có lẽ vì tinh thần đại đồng của Ngài lúc còn sinh tiền mà Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt ngày nay đã đảm trách nhiệm vụ Tổng Lý Đại Đồng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đó là những tấm gương của các bậc trung quân ái quốc vì nước vì dân.
Ngày nay, trong đạo Cao Đài, các Đấng thiêng liêng dạy rằng trách nhiệm xây dựng xã hội, mang lại hạnh phúc cho nhơn sanh không phải chỉ thuộc về các quan chức nhà nước mà kể cả người tu cũng phải tự nhận lấy trách nhiệm này. Có điều trách nhiệm của người tu thiên về phần chuyển hóa nhơn tâm, giáo dân vi thiện.
Đức Vân Hương Thánh Mẫu dạy:
Các em hiện tại là một trong muôn một để lãnh sứ mạng vai trò làm sáng tỏ cái Đạo tự hữu và khêu lại ánh sáng cái Đạo trong lòng nhơn sanh. Trách nhiệm chỉ có thế thôi.
Đời không khổ lụy, nhân sinh không đau thương, thì các em không nhọc nhằn trước sứ mạng cứu thế của Thượng Đế ban cho.([12])
Đức Quan Thánh Đế Quân dạy:
Có câu quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, nhưng cái trách nhiệm của bậc thế Thiên hành hóa, giáo dân vi thiện lại càng quan trọng hơn. Trước cảnh quốc phá gia vong, thôn làng tan nát, đồng bào khổ nạn lầm than thống thiết, người tu không phải dụng võ để tế thế an bang, hoặc dụng văn để sửa đoan quốc chánh. Nếu không làm hai việc ấy, không lẽ vô trách nhiệm sao? Trái lại, tránh nhiệm rất nặng nề nhưng linh diệu mà Thiêng Liêng đã dành sẵn cho [người tu] trong chỗ dụng tâm linh cải hóa nhân tình, lấy đuốc tuệ soi đường sanh chúng.([13])
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Giúp đời trong cơn nguy biến chẳng phải cần đến những trang anh hùng liệt sĩ bạt tụy siêu quần không mà thôi đâu, cũng phải cần đến bậc vĩ nhân thánh triết đạo đức tu trì mới đem lại cuộc thái bình cho nước non dân tộc. Nước có yên, nhà có trị, nhân loại an bình mới hết trách nhiệm của người tu.([14])
Thế nên, Đức Đông Phương Lão Tổ có lần dạy rằng việc cứu giúp người bất hạnh, nhường cơm sẻ áo cho người nghèo nàn đói rách là việc làm cần thiết nhưng việc truyền bá đạo lý để giúp người khác trở về với nếp sống thuần lương đạo đức vong kỷ vị tha lại càng vô cùng cần thiết hơn cho xã hội nhân loại ngày nay.
Tuy nhiên, để việc truyền bá đạo lý chuyển hóa nhơn tâm được hữu hiệu thì trước hết người tu cần phải tu chứng như lời Đức Bảo Hòa Thánh Nữ từng dạy:
Đời càng đảo điên, người tu hành càng có trách nhiệm. Trách nhiệm cao quý và nặng nề nhứt là tu chứng để hoằng dương chánh pháp phổ độ nhơn sanh.([15])
Tu chứng chính là thực chứng được những điều đạo lý mà mình đang truyền bá qua cuộc sống đạo của chính bản thân người tu, từ ý nghĩ, lời nói đến hành động đều là gương mẫu.
Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân dạy:
Cái nhiệm vụ làm người môn đệ ta nên cố gắng để được tròn xứng với cái bổn phận. Hằng ngày tu tiến thân tâm, làm cho sáng danh của mình của Đạo, để rồi cứu người cứu mình, cứu cả đời đã mang tội ác, tạo nên một cảnh hòa bình hạnh phúc cho ngày mai. Sứ mạng đặt trên lời nói, ý nghĩ, việc làm; mọi cử động đều làm khuôn phép mẫu mực cho con, cho nhà, cho người, cho nước. Được thế mới hầu cứu độ chúng sanh trong trầm luân khổ hải.([16])
Ngày nay, nhiều người cho rằng, đời đã tệ thì tội gì ta phải ép mình vào khuôn khổ đạo đức cho khổ thân. Thế nhưng, giả dụ trong một gia đình có mười người con, chín người lười biếng không chịu làm lụng, chỉ có một người làm việc để nuôi sống gia đình; nếu người ấy cũng tỵ nạnh rằng bao nhiêu người kia không làm, tội gì riêng ta phải làm, thì gia đình ấy sẽ ra sao? Bởi vậy, người ấy lại càng phải cật lực làm việc nhiều hơn nữa để nuôi sống gia đình. Tương tự như thế, đời càng sa sút đạo đức thì người tu lại càng phải gương mẫu, trau dồi đức hạnh thêm tròn sáng.
Người môn đệ Cao Đài ngày nay thấm nhuần lý vạn giáo đồng nguyên, các tôn giáo chân chính đều từ một gốc Thượng Đế mà ra, thế nên người môn đệ Cao Đài còn có trách nhiệm kêu gọi anh em tín hữu các tôn giáo trên hoàn cầu cùng bắt tay nhau để kết hợp thành một thực thể đạo cứu thế Kỳ Ba có khả năng cải tạo cõi thế gian đầy đau khổ và nước mắt này thành một xã hội an bình hạnh phúc cho toàn nhân loại.
Đây là một trách nhiệm nặng nề mà tất cả những ai có chí nguyện thực hành Bồ Tát Đạo đều phải gồng gánh trên vai, thể hiện qua lời nguyện thứ tư trong mỗi buổi cúng thời (Tứ nguyện thiên hạ thái bình). Việc tuy khó, nhưng Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ có dạy cho chúng ta một bí quyết để thành công:
Trường đời hay Đạo, bí quyết thành công là do ở chí kiên nhẫn. Các con đã từng xem kinh sử cổ kim, đã rõ tường tích Ngu Công phá núi,([17]) thì vai tuồng của mỗi con ngày hôm nay chẳng khác Ngu Công đó vậy.
(…)
Các con đã rõ tích của Ngu Công rồi thì các con hãy đóng vai trò ấy cho đúng với nhiệm vụ thế Thiên hành hóa.
Ngu Công tuy tuổi già sức yếu, mà núi thì cao lớn, nhưng nhờ chí kiên nhẫn, bền bỉ, đem hết tâm lực ra để hành sự, chẳng màng lời chê cười của Trí Tẩu.
Con đây cũng thế ấy, không nên vì vật chất, lợi danh ám ảnh mà quên sứ mạng thiêng liêng, trọng trách của Thầy giao phó.
(…)
Cái bí quyết thành công là do chí kiên nhẫn, chịu đựng gian khổ, bền bỉ, tận nhơn lực, thì lo chi sự thành công không kết quả mỹ mãn đó các con.
Thầy đã cạn lời, trẻ nghiệm suy
Bước đường hành đạo ráng lo thì
Cảnh đời sắp đến nhiều đau khổ
Phận sự các con phải cứu nguy
Gặp lúc phong vân con lãnh phận
Đến ngày chuyển hóa, trẻ hành vi
Làm sao cho xứng con hiền hiếu
Đạo đức chấn hưng đã đến kỳ.([18])
Xin thành tâm cầu nguyện Thầy Mẹ ban bố ân lành để tất cả huynh tỷ đệ muội chúng ta đều có được ý chí kiên nhẫn bền bỉ để làm tròn trách nhiệm của người môn đệ Cao Đài mà Đức Đại Từ Phụ đã trao phó.
PHỤ LỤC: NGU CÔNG PHÁ NÚI
Sự tích Ngu Công phá núi được ghi lại trong Cổ Học Tinh Hoa của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tĩnh Trai Trần Lê Nhân. Ngu Công tuổi chín mươi, nhà ở chân núi Thái Hàng và Vương Ốc phía nam Châu Ký. Ngu Công thấy núi gây chướng ngại cho mọi người trong việc đi lại nên quyết định huy động cả dòng họ phá núi mở đường. Cả nhà ông hợp sức với nhau, kẻ đục đá, người đào đất, kẻ đầu đội, người vai mang đổ đất đá ra biển Đông, hết ngày này sang tháng khác. Ông lão Trí Tẩu thấy vậy cười Ngu Công và can: “Sao khờ dại vậy! Mình thì tuổi tác, núi thì cao lớn, phá thế nào nổi!” Ngu Công nói: “Bền lòng thì việc gì cũng phải được. Ta già, ta chết, đã có con ta. Hết đời con ta, đã có cháu ta. Hết đời cháu ta, đã có chắt ta. Con con cháu cháu sinh hạ vô cùng mà núi thì bao giờ cũng vậy, lo gì không bạt nổi.” Trí Tẩu nghe nói, nín lặng. Sau này vùng nam Châu Ký không có núi non chướng ngại, đi lại thuận tiện là nhờ có Ngu Công.
Trong thánh giáo, ngoài tích Ngu Công, Ơn Trên còn nhắc tới tích chim Tinh Vệ. Huyền sử chép rằng con gái Viêm Đế là Nữ Oa bị chết đuối ở biển Đông, hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày thường ngậm đá ở núi Tây bay ra lấp biển Đông.
- Tại thánh thất Trung Thành, ngày 20-11 Kỷ Mão (Thứ Bảy 30-12-1939), Đức Trần Hưng Đạo dạy :
Toan lấp bể gọi hồn Tinh Vệ
Tính dời non học chí Ngu Công
Muốn cho thế giới đại đồng
Thảy đều một dạ đắp trồng cho xinh.
- Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 17-5 Đinh Dậu (Thứ Sáu 14-6-1957), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Lớn lao là lấp bể dời non mà chuyện xưa còn nhắc, không nói chuyện ấy có không, mà nói lòng quả quyết như chuyện Ngu Công cùng chim Tinh Vệ.
- Tại thánh thất Trung Thành, ngày 15-10 Canh Thìn (Thứ Năm 14-11-1940), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Khuyên đời học chí Ngu Công
Mặc dầu Trí Tẩu đem lòng cười chê.
Văn học Việt Nam có nhiều dòng thơ nhắc tích Ngu Công và chim Tinh Vệ.
- Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766-1820):
Tình thâm bể thảm lạ điều
Nào hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào?
- Nhà thơ Cao Bá Quát (1809-1855):
Hàm thạch chỉ lao Tinh Vệ hận
Di sơn trường tiếu lão Ngu Công.([19])
(Chỉ mệt Tinh Vệ ôm hận ngậm đá
Cười hoài lão Ngu Công dời núi non.)
- Chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926):
Tinh Vệ nghìn năm hồn khó dứt
Đỗ Quyên muôn kiếp oán chưa tan.
DIỆU NGUYÊN




([1]) Bài nói chuyện tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài vào sáng Thứ Ba 14-6-2016 (10-5 Bính Thân).
([2]) Thiên Lý Đàn, 20-01 Đinh Mùi (28-02-1967).
([3]) Vĩnh Nguyên Tự, 27-01 Ất Mão (09-3-1975).
([4]) đòi phen: Nhiều phen, nhiều lần.
([5]) đối xứng: Tương xứng.
([6]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-10 Bính Dần (16-11-1986).
([7]) vị kỷ vị thân: Vì bản thân mình và người thân của mình.
([8]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([9]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-12 Bính Ngọ (11-01-1967).
([10]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([11]) Cũng gọi là Đường Tống bát đại gia, gồm có: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên (đời Đường); Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Vương An Thạch và Tăng Củng (đời Tống).
([12]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([13]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([14]) Minh Lý Thánh Hội, 26-9 Mậu Thân (16-11-1968).
([15]) Vĩnh Nguyên Tự, 22-11 Đinh Tỵ (01-01-1978).
([16]) Trung Hưng Bửu Tòa, 30-01 Đinh Dậu (01-3-1957).
([17]) Ngu Công phá núi: Xem phụ lục cuối bài này.
([18]) Thánh Huấn Hiệp Tuyển. Quyển 1, bài 57: Bí Quyết Thành Công.
([19]) 含石只勞精衛恨 / 移山長笑老愚公. (Văn Uyển chú)