Trung Hưng Bửu Tòa
30-01 Đinh Dậu (Thứ Sáu 01-3-1957)
CAO thượng
nhờ tu lập vị mình
BẢO tồn quyền pháp
được tinh minh
VĂN ngôn giáo hóa
khai chơn đạo
Chào chư Thiên ân, chư chức vụ cùng toàn thể đạo
tâm nam nữ. Nghiêm đàn. Xin mời an tọa.
(…) Chúng ta có
trọng trách lớn lao, nên Tiểu Thánh nêu năm chữ là phải trở về cùng nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của mọi người ai cũng có hai phần: một
phần tu kỷ, một phần độ tha. Hai phần mà một, một phần mà hai, như gia đình thì
người con phải tu thân, tề gia. Quốc gia thì người dân phải cứu nước,
dựng nước. Về tôn giáo người tín đồ phải giữ đạo, truyền đạo.
Người đạo là người phải thế nào? Là làm tròn cái
bổn phận của người tín đồ đối với Thầy, với bạn.
Với bạn, ta phải tín, thân, hòa,
ái, làm cho giữa nhau có mối tương quan. Bạn nhờ ta mà nên, ta nhờ bạn
mà thành, nương nhau mà tiến, mà tu, mà học, mà sửa chữa tánh tình.
Với Thầy, ta trọn tin trọn kính, đem thân trong
sạch nhờ cậy nơi quyền năng Thầy mà thắng tất cả pháp giới ma lực, nhờ đức tin
làm cho giữa ta và các Đấng thiêng liêng gắn chặt. Hằng giao cảm, nên thân tâm
được gội rửa điển lành, ngày một trở nên thanh tịnh.
Thầy và bạn là hai yếu tố quan trọng tương liên.
Giữa hai phần đó còn một phần thứ yếu là pháp luật để nối liền cho đôi bên suốt
thông, không rối loạn. Pháp là đường lối dẫn dắt, phương pháp hợp thành đôi
bên, người tu phải quy y Tam Bảo là thế.
Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Phật là thầy, Tăng
là bạn, Pháp là tổ chức để đưa rước chúng sanh huờn nguyên bản bổn, cũng là Hội
Thánh. Có quy y Tam Bảo bên ngoài cùng với Thầy, với Hội Thánh, với nhơn sanh
thì thân nầy mới bảo đảm, mới chế ngự được phàm phu tình thức, mới giữ vững giá
phẩm con người, mới mong đạt cơ tận thức.
Bên ngoài được rồi thì đồng thời bên trong của
tâm ta cũng được Tam Bửu là Tinh, Khí, Thần mãn túc. Tinh mãn không dâm dục.
Khí mãn không đói rét. Thần mãn không mê nhọc, tự khắc huân kết kim đơn. Nên về
phương luyện đạo nhiều người tu, ít người đạt đạo, là vì bên ngoài chưa tròn
xứng với nhiệm vụ, không quy y Tam Bảo của luật pháp ấn định, rồi cầu kỳ nơi
thâm viễn mà xa con đường Trung Đạo nên lạc vào bàng môn ngoại giáo.
Tiểu Thánh khuyên cùng toàn đạo, muốn tu cho đắc
đạo thì phải thương Thầy mến bạn, lấy pháp luật làm phương hướng giữ đạo sửa
mình, để cho khế đồng tương ngộ, hợp với người thuận với Trời. Bằng bỏ pháp
luật đi thì thân bị hèn nhục, tâm bị hôn mê, linh căn đọa lạc. Với người, họ
chán ghét ruồng bỏ; với Trời thì bị từ khước quở phạt. Vì pháp luật là quy tắc
để làm Người, làm Tiên, làm Phật, thì phải giữ lấy pháp luật làm căn bản.
Đã nói pháp luật là quy tắc làm công cụ chế tạo
phàm phu nên thánh đức, tội ác hóa phước duyên, mê ngu ra xán lạn, thì sao lại
lìa bỏ nó được. Ví như muốn có cơm thì phải nấu; nấu cần phải có củi lửa, nước,
gạo, và nồi. Thét lửa cho sôi, sôi rồi bớt lửa. Nếu còn đun đốt thì hư cháy, mà
nôn nả thì sống sít, nên quy tắc phải có chừng độ. Nói tóm lại là muốn cho
thành công phải y hành luật pháp quy tắc.
Phần giữ đạo đã được căn bản, thì hàng ngũ mới
vững chắc, cơ sở mới bền lâu, phương danh được rạng rỡ, thế đạo được to lớn
mạnh mẽ, nội bộ uy nghi, tình thương chan chứa, sức sống phân đều. Kẻ nầy có
bổn phận với người nọ, người nọ có bổn phận với người kia.
Vì thương nhau mà lo cho nhau về phần xác cũng
như phần hồn, không nỡ lòng để nhau sa lạc. Nên một điều lầm lỗi bằng lời nói,
bằng việc làm, bằng dung dáng, đã trông vào thấy có phần tai hại thì cùng nhau
xúm lo sửa chữa, bảo nhau nên thôi, khuyên nhau nên bỏ, chỉ nhau nên tránh, nói
nhau nên chừa, cản nhau nên thối bước.
Vì thương nhau mà không ngần ngại, thương nhau
mới xây dựng giúp đỡ cho nhau. Lòng thương nó phát ra bằng cử chỉ, bằng lời
nói, là các pháp môn cứu người. Người tiếp thâu vào lòng thấy có phần hối cải mà
cảm ngộ được lẽ đạo. Nên người có lỗi họ rất vui sướng bằng lòng. Vui và mau
nhận lỗi là vì cái tình thương chân thật của bên kia nó bắn xạ vào tâm linh một
lằn điển quang mát mẻ, vẹt cả u ám mê lầm.
Nếu kẻ kia không phải vì lòng thương yêu mà nói,
mà cản ngăn thì thái độ ấy đối với người phạm lỗi không thành hiệu lực, mà còn
gây lòng phản trái là khác. Vì vậy pháp môn cứu người độ đời cần phải thật tâm
không môi miếng. Lòng thương kia nó chan chứa mà hòa lẫn trong khối đạo tâm. Nó
là một bờ tường kiên cố để ngăn ngừa sự vô minh tội lỗi. Bởi vậy người cha sở
dĩ thương con không muốn cho con hư, nên lúc nhỏ hay coi chừng, lúc lớn hay
nhắc nhở là cố xây dựng cho nên người, đẹp danh tốt phận. Vì lẽ chung và tinh
thần tiến bộ thì tự nhau xây dựng cho nhau, có cần gì người cầm pháp luật răn
he sửa trị.
Vì trình độ của đạo hữu còn kém, nên phần đông
thấy lỗi của bạn lại che giấu đi, gọi là ơn và thương mà khỏa lấp, không ngờ đó
là giết bạn bằng cách âm thầm.([2]) Cũng có người thấy lỗi của bạn lại cao rao bàn tán
xầm xì, làm cho người có lỗi càng lỗi thêm. Người thấy lỗi đã không sửa được
lỗi mà làm cho lỗi càng to, và gieo rải lỗi ấy cho chung quanh mọi người cùng
bị lỗi thành ra cả đám.
Ôi! Người đó đã gây biết bao ác hại cho đạo, ví
như lửa một nhóm không tưới tắt, rồi lại nhen nhúm cho to, đem mồi đốt cùng các
chỗ, cho cháy to lan rộng. Vì vậy Tiểu Thánh khuyên người giữ đạo nên dè dặt,
tiểu tâm,([3]) không tạo
được lành thì đừng gây ác. Phần giữ đạo mà hàng ngũ giác ngộ được pháp luật thì
phần truyền đạo rất dễ dàng, cũng như cái thùng lành, cái gàu có nhỏ, múc lên
cũng chứa được, nên phần nội bộ rất quan trọng.
Mỗi cá nhân biết quý trọng lấy phần tâm, thấy
được giá trị cái thiên chức của mình, thì cố gắng dồi luyện tính tình, chế kềm
ý dục, làm tròn bổn phận thiêng liêng, để được xứng danh một tín đồ của bảng
hồng danh nơi Thiên vị. Cái danh vị tín
đồ của Chí Tôn không dễ ai xưng cũng được. Người có thiện duyên phúc đức
mới gặp Tam Kỳ đại xá, làm một đệ tử của Thầy thì làm sao cho xứng đáng. Đã
biết cái giá trị kia muôn năm khó gặp, thì lo khép mình vào trong khuôn phép
đạo đức, để được chóng thành một môn đệ xứng đáng, hầu thọ lấy quyền pháp tối
linh để nâng cao phẩm vị con người. Người được ân phước như thế mới hầu ra giúp
đời, cứu người mà bòn chắt công hạnh, xây nên lầu đài nơi cõi Tiên Bồng.
Cái nhiệm vụ làm người môn đệ ta nên cố gắng để
được tròn xứng với cái bổn phận. Hằng ngày tu tiến thân tâm, làm cho sáng danh
của mình của Đạo, để rồi cứu người cứu mình, cứu cả đời đã mang tội ác, tạo nên
một cảnh hòa bình hạnh phúc cho ngày mai. Sứ mạng đặt trên lời nói, ý nghĩ,
việc làm; mọi cử động đều làm khuôn phép mẫu mực cho con, cho nhà, cho người,
cho nước. Được thế mới hầu cứu độ chúng sanh trong trầm luân khổ hải.
Luật pháp không đòi hỏi quá mức con người, chỉ
buộc mỗi cá nhân phải làm đúng với cái tên đã có. Cái tên ấy là người tín đồ của Đại Đạo. Tín đồ của
Đại Đạo không phải chỉ như một hội viên của một đoàn thể nào có tánh cách xã
hội, nó còn thiêng liêng hơn gấp mấy trăm lần. Vì một hội viên phải phục tùng
tôn chỉ của hội là tuân hành điều lệ kỷ luật đã ấn định, để làm cho hội được
lớn mạnh, phát triển dễ dàng. Hội ấy là một tổ chức từ thiện nhứt thời, chan
rải tình nhơn loại giữa nhau. Hội viên hội ấy làm sao sánh kịp được cái tên tín
đồ của Đại Đạo.
Tín đồ là người đã được cứu, được nâng mình lên
trên tất cả cái gì mà người ta gọi là phàm phu hèn thấp, đã được khước bộ Âm
Ty, được vào trong hàng thánh đức, được Thầy và các Đấng thiêng liêng hằng
trông coi dìu dắt, thoát nơi đen tối vô minh. Người tín đồ có giá trị nơi phần
thiêng liêng để độ phần hồn siêu xuất khổ hải, cứu phần xác danh phận cao tôn.
Ôi! Từ lâu người tín đồ ngỡ là vào cửa Đạo để
cho vui, chưa thấy cái giá trị tôn quý trong hàng thánh đức, nên vào thì vào,
tu cũng tu, chớ nào thấy cái trọng trách phải làm sao cho xứng đáng và được đẹp
lòng Thầy điều độ.
Từ lâu quẩn quanh đua tranh với mồi danh bả lợi,
giành xé nhau tấm mặc miếng ăn, mua sự thỏa thích cho ý tình mà quên thấy xấu
hổ ti tiện và tự hạ giá trị con người xuống cùng hàng thú vật. Nên năm nay là
năm Chỉnh Pháp Giáo Pháp, cần được chỉnh đốn mọi mặt trong nội bộ, nhất là tín
đồ, để cho xứng đáng một người tu, khỏi mang tiếng cái tên học trò Tiên mang
lốt Đạo. Vì thế mà lời kêu gọi của năm Khai Cơ Giáo Pháp, khảo xét tất cả từ
nhơn sanh chí Hội Thánh. Kẻ thiên chức, người tín đồ phải mau mau trở về với nhiệm vụ.
Trở về là nghĩa làm sao? Phải chăng từ lâu ta đã
đi xa luật pháp, tách biệt cùng Thầy, nên hầu như rời tách con đường tạo Tiên
tác Phật. Nên trở về là ý nói quy y cùng
Thượng Đế, cùng tổ chức, cùng đoàn thể của mình.
Về với Thầy, ta phải làm những gì cho xứng đáng
với nhiệm vụ. Về với tổ chức, với chúng bạn thì làm sao? Nên nhiệm vụ của tín
đồ là giữ tròn Tam Quy Ngũ Giới, làm đúng hai mươi bốn điều Thế Luật để sửa
mình, để độ người. Cùng nhau siết tay xây dựng nền móng Đạo, hàng ngũ sống còn
kết thành bức tranh tốt đẹp kỳ xảo. Chư chức sắc, chư chức việc ai ở cấp bậc
nào trong hàng phẩm nào, đều làm tròn phận sự là trở về với nhiệm vụ.
Trở về như thế là quy y Phật vị, nương lấy
oai thần điển huệ Chí Tôn mà tạo thành con người Bồ Tát, là người giữ đúng pháp
luật, nhờ pháp luật mà tạo cải thân tâm, chế phàm phu, ngăn tình thức, xây dựng
con người Thần Thánh, vứt bỏ được oan trái phiền não nghiệp chướng, ác tâm.
Lòng vui tươi, thân khỏe mạnh, thần trí sáng suốt, giá phẩm tăng cao, đức hạnh
uy nghi, cảm hóa được người bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh, ma quỷ khâm phục
tôn ca. Ấy là quy y Pháp.
Nhờ tùng Pháp mà đi đến Đạo, đạt Đạo để cứu
chúng sanh, mà cứu được người là đại
Thiên hành hóa.([4]) Cứu người
không phải học cho nhiều, nói cho suốt, biện bác cho tài tình. Cứu người ở trên
thực chất bằng hành động, lời nói việc làm đã chứng tỏ mỗi ngày. Mà chính yếu
là phần công phu thực hành tu dưỡng nơi thân tâm, hiện ra dung dáng bằng đức
hạnh, làm cho điển lực nơi người rung động từng cơn như làn sóng, rất có hiệu
lực. Nói ra ai cũng ưa nghe, khiến được xa gần tất cả ai cũng được thế, thì bao
nhiêu hiệu lực kia cộng hợp lại thành khối. Khối ấy mỗi một lúc phát ra thì có
khác chi xuân khí đầu năm. Không nói cứu sống, nuôi mạnh, trợ lực cho vạn vật,
mà vạn vật được tiếp lấy khí xuân dương phát tải hồi sanh vượng. Ôi! Ai biết
quyền pháp đó chăng? Vô danh, phi thường danh mới thành đại nguyện, nên vô vi
để dịch sử quần linh là phương tu lập pháp.
Lập pháp là lập cái thân. Lập cái thân là lập
thành thánh thể cho Đại Đạo. Lúc trì châu khởi chú, cúng sám quỳ hương, vận khí
điều thần là làm cho thân được lập, tâm được thanh, quyền pháp được tụ hội.
Thần khí quy về pháp giới tịnh yên, nhứt khắc trụ thần vào đâu là sử dịch được
đó. Vô vi không phải không làm để chơi rông, tiêu cực với nhiệm vụ, mà trái lại
để tăng trưởng sức lực hoạt động bên trong, bình tĩnh mà tiếp phăng nguồn gốc
mối manh của vạn hữu mà định phương tịnh độ.
Vì pháp luật cần yếu cho người, người nương pháp
luật mà lên ngôi thượng phẩm. Pháp luật cứu được mình, cứu cả chúng sanh; nó là
cái quy củ nhất định không ai bỏ ra mà nên việc được. Vì vậy về phần giữ Đạo là
giữ pháp luật để cho còn Đạo. Còn Đạo là còn thân tâm Bồ Tát của ta. Còn ta còn
Đạo thì còn mong ngày tận độ chúng sanh.
Chúng sanh quay về với pháp luật thì chúng sanh
và ta là một. Một ấy là Đạo, nên lấy con số một làm đề mục cho việc giữ Đạo
hành pháp. Lấy con số hai làm bộ máy chế hóa cho tâm tức điều hòa, đạo đời
không trái. Chỉ có hai mới làm được việc giữ đạo, truyền đạo. Sao vậy? Vì hai
là phần khí của Tạo Hóa để trưởng thành vạn hữu, để phân định sáng tối, để phân
thanh giáng trược, để ghép liền mảnh nọ thân kia cho đôi phần dính dáng. Hai là
pháp, pháp để làm cho thành sự, còn luật để cho sự sự tương liên.
Pháp luật là cơ mầu nhiệm cứu người vô kể. Phật
đã thành, Phật sắp thành và chúng sanh sẽ được thành Phật, đều nương pháp luật.
Phật đã qua, Phật sắp tới đều dính liền, khác chi tràng hạt trên tay lúc đương
lần niệm. Cứ lăn quay hết vòng này sang vòng khác, đều yên vững nương lấy sợi
dây đạo pháp mà tiến về với câu thần chú. Câu thần chú là tiếng gọi bao hạt từ
bi. Còn gọi còn thấy chúng sanh quay mình trong pháp Đạo tiến về một phương để
chầu Thượng Đế. Không ai không nhờ quyền (Thầy) pháp (Hội Thánh) mà được cứu.
Vì vậy kẻ có trách nhiệm nên thận trọng mà lo tròn sứ mạng nơi mình, ráng tu để
cầu đạt Đạo.
Bây giờ nói qua về phần truyền đạo. Phần nầy
không phải riêng cho giáo sĩ truyền giáo, mà cũng không riêng chư Thiên phong
chức sắc của Hội Thánh, mà là phần việc chung của mỗi tín đồ.
Nếu nội bộ có đủ tư cách quyền pháp tinh minh,
chẳng những độ chúng sanh trong cõi ta bà mà còn độ cả thiên la chúng thần trên
thượng giới.
Điều quan trọng hơn hết là phần giữ đạo, ví như
ngọn đèn muốn soi sáng khắp một gian nhà thì sự sáng nó bắt từ trong cái tim ở
miệng bình mà ra, chứ phải sự sáng ở ngoài mà đến đâu. Cũng như khai mương, đào
lạch để đem nước cho đến phương xa chảy về nguồn cả. Vì vậy phần giữ đạo là
chính, phần truyền đạo là phụ. Nói phụ không phải để đặt nhẹ vấn đề nầy, mà để
ta phải tu chỉnh nội bộ trước nhất cho hoàn thành vững chắc, rồi đi truyền đạo
mọi nơi.
Nếu giữ đạo mà không truyền đạo thì không thành
đạo. Người truyền đạo là người hiện thân của pháp luật. Có cái thân pháp luật
mới có lời nói pháp luật, việc làm pháp luật, đi dạy người học tu pháp luật.
Nên truyền đạo là truyền bá pháp luật để được cứu. Pháp luật là cái cầu bắc
ngang cho người và Trời làm một, làm cho khách ta bà nơi phàm tục qua bờ giác
bên kia.
Truyền đạo là gieo giống lành vào lòng chúng
sanh, và gieo sự sáng vào cõi tăm tối. Giống lành sự sáng chính là Thượng Đế
hay là đạo đức. Có giống lành sự sáng nơi mình mới có mà gieo, chớ không lẽ hai
tay không vãi vào thiên hạ bằng thứ chi để cứu.
Giống lành sự sáng ta có sẵn là nhờ ta tiếp liên
với Thượng Đế, do nhiều công phu tu tập lâu ngày. Cái thân làm chỗ chứa giống
lành sự sáng, chớ không phải tự nhiên không mệt nhọc mà có. Có là nhờ thân ta
đã dọn sạch giống dữ, sự tối ra khỏi, để cho giống lành sự sáng được tụ. Không
thể có hai đối tượng ở chung nhau làm thân được. Hễ chứa lành thì dữ phải đi,
có sáng thì tối kia phải hết.
Người truyền đạo phải tu tập quyền pháp mà cứu
đời. Người truyền đạo gần nhơn sanh hơn hết là Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự, một
thành trì giữ đạo mà cũng là cờ đạo cắm khắp nơi. Vậy khuyên nhắc cơ sở xã đạo
ráng lo tu học. Tiểu Thánh tạm ngừng về đoạn truyền đạo, sau sẽ nói thêm.
(…)
Tiểu Thánh chào.
(Trích: Phạm Văn
Liêm, Hồng Ân Tận Độ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 101-112. Quyển 92-1
trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)