* Hiền huynh Vị Chân (ấp Mỹ Hòa 3, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, TpHCM). Thư
ngày 20-01-2016:
ĐẠI THỪA CHƠN
GIÁO (Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo 2011, quyển 36-1 trong Chương Trình
Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), trang 69, lời Thầy dạy như sau:
Coi thử xưa nay bậc Thánh Hiền
An vui
nhờ bởi NHẪN HÒA KIÊN
Gương
lành quý hóa TRƯƠNG CÔNG NGHỆ
Súc vật thương nhau quá ngọc tiền.
Trương Công Nghệ là ai? Câu thơ thứ tư nghĩa là
gì?
Huệ Khải: Dưới triều nhà Đường 唐 (Trung Quốc) có ông Trương Công Nghệ 張公藝, người đất Vận Châu 鄆州. Ông bà
con cháu họ Trương chín đời sống chung với nhau rất hòa thuận. Nghe tiếng lành,
vua Cao Tông 高宗 (Lý
Trị 李治, trị vì
649-683) bèn ghé nhà ông hỏi nhờ đâu mà đại gia tộc có thể chung sống hòa mục
như vậy. Ông Trương Công Nghệ lấy giấy bút viết một trăm chữ Nhẫn 忍 rồi
dâng lên vua. Cao Tông bèn ban cho ông một trái lê để xem ông xử trí ra sao. Ông
Trương xắt vụn trái lê rồi bỏ vào thùng lớn đầy nước đem nấu sôi. Sau đó ông
gọi tất cả mọi người lớn bé trong nhà đến, mỗi người húp một muỗng nước, gọi là
chung hưởng đồng đều lộc vua ban.
Do tích trên mà
người xưa ca tụng:
Trương Công Nghệ trăm phần nhẫn nhịn
Chín đời
cùng xúm xít ở chung
Tiếng
lành đồn thấu bệ rồng
Một nhà
sum hiệp Cửu Trùng ban khen.
Cửu Trùng tức là vua Cao Tông. Lại nói, nhà ông Trương nuôi một
trăm con chó. Đến bữa ăn, nếu thiếu một con thì cả đàn đều không ăn, cùng chờ
đợi. Do tích này mà câu thánh thi Thầy dạy: Súc
vật thương nhau quá ngọc tiền. (Ngọc
là ngọc ngà, châu báu; tiền là tiền bạc.
Quá ngọc tiền: Còn hơn cả tiền bạc
ngọc châu.)
*
* Hiền huynh Vị Chân. Thư ngày 20-01-2016 (tiếp theo):
Xin Ban Ấn Tống giải đáp hai vấn đề khác biệt sau đây:
1. ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO
(bản in 2011, trang 166, dòng 6-9), in
như sau:
“Tam Thanh là CHƠN THANH
(Thái Thanh), NGỌC THANH, và THƯỢNG THANH.
CHƠN THANH là nguơn khí
của các con.
THƯỢNG THANH là nguơn thần.
NGỌC THANH là nguơn
tinh.”
Trong PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI, in chung với hai quyển THÁNH NGÔN HIỆP
TUYỂN và TÂN LUẬT năm 1972 tại nhà in Trung Tâm Giáo Hóa Thiếu Nhi Thủ Đức,
trang 270, dòng 8 (đếm từ dưới
lên), ghi là:
“Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần.”
Nhưng CAO ĐÀI KHÁI YẾU
của Đạt Đức (Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo 2013, quyển 58-1 trong Chương Trình
Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), trang 42, dòng 8, in là:
“Ngọc là Tinh; Thượng là Khí; Thái là Thần.”
2. ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO,
bản in 2011, trang 228, dòng 1 (đếm từ dưới lên), in như sau:
“Còn HOA, QUẢ, TRÀ là tam bửu của các con.”
Nhưng THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN, quyển I, ấn hành năm 1972, trang
44, in như sau:
“Rượu là Khí, /
Bông là Tinh, / Trà là Thần.”
Ban Ấn Tống: Kính thưa hiền huynh, chúng tôi vô cùng khâm phục hiền
huynh đọc kinh sách rất kỹ. Những câu hỏi của hiền huynh bấy lâu nay rất lý thú
và bổ ích cho đồng đạo chúng ta. Thưa vâng, quả như hiền huynh đã nêu rõ, chúng
tôi có thấy sự khác biệt giữa Đại Thừa Chơn Giáo (phái Chiếu Minh, tu
vô vi, nội giáo tâm truyền) và kinh sách Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, cũng như của
cụ Đạt Đức (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài). Tuy nhiên, khi in lại Đại Thừa Chơn Giáo theo bản in song ngữ
Việt-Pháp (năm Canh Dần, 1950) chúng tôi vẫn giữ đúng câu văn
như bản in xưa.
Riêng câu “Còn HOA, QUẢ, TRÀ là tam bửu của các con” (bản in 1950, trang
436), được dịch ở trang 437 là “Les FLEURS, les FRUITS, le THÉ constituent vos Trois
Trésors (Tam Bửu).”
Xem tiếp tới trang 444 (bản in 1950), dòng 4-5, lại thấy: “Tinh, khí, thần, trong mình có đủ / HOA, QUẢ, TRÀ thể dụ
tam quang”, và trang 445, dòng 4, dịch HOA, QUẢ, TRÀ là “Les FLEURS, les FRUITS, et le THÉ”.
Như vậy, không thể nào nghĩ rằng bản kinh 1950 đã
in nhầm chữ QUẢ (fruits).
In lại câu hỏi của hiền huynh Vị Chân nơi đây, chúng tôi rất
mong sẽ được các bậc cao minh chỉ giáo giúp cho.
*
* Hiền muội Nguyễn Hồng Từ Phước (Phụng Hiệp, Tân Thành, Cà Mau). E-mail ngày 19-5-2016:
Con nhận được sách ĐÔI ĐIỀU VỀ BÌNH GIẢNG THÁNH
GIÁO rồi. Ước gì Cà Mau có ban chuyên nghiên cứu về giáo lý, bình giảng cho các
thánh thất, thánh tịnh - Đó mới
là phổ độ chúng sanh, đồng nghĩa với Nhất nguyện trong Ngũ
Nguyện. Sách rất bổ ích. Con cảm ơn bác.
Huệ Khải: Cảm ơn hiền muội nhiều, vì những đồng cảm của người đọc
ở nơi xa và lại còn chịu khó viết thư cho người viết. Ấn tống tập sách mỏng ĐÔI ĐIỀU VỀ BÌNH GIẢNG THÁNH GIÁO, tôi ước
mong các tín hữu bạn đọc nhận thức rằng sách này chẳng phải chỉ
dành riêng cho Đoàn Phổ Tế Lưu Động của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài; trái
lại, nên xem đây là một nỗ lực đầy ý thức trách nhiệm đối với tiền đồ Đại Đạo,
do đó cách làm của Hội Thánh Truyền
Giáo nên được các cộng đồng Cao Đài khác quan tâm để rồi thử tìm cách áp dụng
sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể tại địa phương mình. Đạo Thầy gần một trăm
tuổi mà việc phổ thông giáo lý cho tín đồ vẫn chưa được thực hiện rộng khắp, quả
thật buồn tủi biết bao!
*
* Hiền huynh Nguyễn Văn Nghĩa (ấp Ninh Thuận, xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu, Tây
Ninh). Ngày 28-6-2016:
Đệ vừa chuyển về Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách số tiền 800.000
đồng. Đây là công quả của các vị có phương danh như sau: . . . Đệ xin nhận thêm
các sách sau đây: . . .
Đệ báo tin vui: Nhiều đạo hữu gởi lời cảm ơn, nhờ KINH SÁM HỐI MINH HỌA đã
chuyển tâm được nhiều gia đình biết ăn chay, không sát sinh, vợ chồng hòa
thuận, con cháu biết hiếu thảo và cung kính cha mẹ, ông bà. Đệ cũng rất vui.
Ban Ấn Tống: Thưa hiền huynh kính mến, từ tháng 9-2015 tới nay, thấm
thoát đã chín tháng chúng ta có duyên biết nhau qua thư từ, điện thoại, và đặc
biệt là kinh sách ấn tống. Tháng nào chúng tôi cũng vui mừng khi có dịp đóng gói
thêm nhiều kinh sách để gởi về hiền huynh. Không quản ngại tuổi cao, hiền huynh
đã cùng bửu quyến nhiệt tâm giới thiệu cho đạo hữu Tây Ninh tiếp cận kinh sách ấn
tống một cách hiệu quả, khiến chúng tôi rất đỗi cảm kích. Nếu càng có thêm nhiều
điểm phát hành kinh sách ấn tống cũng hành đạo tích cực như gia đình hiền huynh
thì cánh tay ấn tống càng thêm nối dài, giáo lý Kỳ Ba càng được phổ thông rộng
khắp, thì anh chị em nhà đạo chúng ta càng thêm hạnh phúc, như lời Đức Mẹ dạy
vào dịp Trung Thu năm Bính Thìn: Lòng con
sẵn có vui thầm / Dị đồng sai khác cũng tầm nguồn vui.
*
* Hiền tỷ Đào Thị Khiêm (thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai). Thư ngày 03-7-2016:
Văn Uyển tập Hanh (số 18) năm Bính Thân, trang 7-9 có bài thánh thi MƯỜI
KHUYÊN của Đức Lý, dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 28-11 Kỷ Hợi (Chủ Nhật
27-12-1959). Văn Uyển tập Nguyên (số 1) năm Nhâm Thìn, trang 19-22 có bài thánh
thi MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM của Thầy, trích trong Sấm Giảng Huỳnh Đạo,
trang 18-21, của Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, núi Cấm, Tri Tôn, Châu
Đốc (xuất bản trước 1975). Đạo Cao Đài vẫn xem mười hai là số huyền diệu
của Thầy; tại sao hai bài thánh thi ấy không dùng số mười hai mà lại
dùng số mười?
Huệ Khải: Thưa hiền tỷ, số mười không chỉ là một số đếm (mười ngày, mười năm...) mà còn được dùng với ý nghĩa đủ đầy tất cả, hoàn toàn trọn vẹn, hoàn hảo (perfect). Chữ Hán nói thập thành 十成 , thập phần 十分 , thập toàn thập mỹ 十全十美 đều nghĩa là vẹn đủ cả mười, trọn vẹn,
hoàn hảo, mười phân vẹn mười. Hoa khai
dĩ thập phần 花開已十分 nghĩa là hoa đã nở
hết cả rồi, nở không còn búp nào nữa. Do đó, khi tả nhan sắc hai chị em
Thúy Kiều và, Nguyễn Du (1766– 1820) bảo: Mai
cốt cách tuyết tinh thần / Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vậy, Ơn Trên dạy mười
khuyên, có nghĩa đó là những khuôn vàng thước ngọc hoàn hảo, trọn vẹn để giúp chúng ta tu học và hành đạo kết quả.
Ngoài hai trường hợp như hiền tỷ đã nêu, sau đây là ba
trường hợp khác, trích trong Thánh Truyền
Trung Hưng (của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài):
1. Tại thánh thất Minh Trung, Thứ Bảy 10-01-1959 (02-12 Mậu
Tuất), Đại Đức Ngô Tiên (Ngô Minh
Chiêu) dạy:
MỘT là tu cho người trông cậy
HAI là làm đời thấy kỉnh tin
Thân ta cẩn thận giữ gìn
Làm gương hướng đạo tỏ tình trắng trong
BA nên gắng đề phòng nội khảo
BỐN luôn luôn hoài bão thanh danh
Công tư cân nhắc cho rành
Phải là chí kỉnh chí thành ưu tư
NĂM cải tệ (1) sửa hư chừa lỗi
SÁU xét mình sám hối thường xuyên
Thiết tha bảo vệ pháp quyền
Hy sinh thân phận bảo giềng Thiên ân
BẢY nội bộ tinh thần tinh tiến
TÁM ngoại tình sự kiện đắn đo
Làm sao trọn vẹn thân trò
Thân trò là Đạo, Đạo trò là danh
CHÍN phải lo tu thành tâm pháp
MƯỜI khuyên nhau đóng góp tình thương
Pháp luân vận chuyển cho thường [1]([2])
Mối tình đồng
đạo là phương đại đồng.
() Cải tệ 改弊: Sửa chữa điều xấu, khuyết điểm, điều có hại.
() Pháp luân thường chuyển 法輪常轉: Luôn quay bánh xe đạo pháp; siêng năng hành thiền.
2. Tại thánh thất Tịnh Quang, Thứ Năm
15-01-1959 (07-12 Mậu Tuất), Đức Diêu
Trì Kim Mẫu dạy:
MỘT khuyên con kính thờ Đạo cả
HAI khuyên con xa bả trần tình
BA khuyên sớm tối sửa mình
BỐN khuyên quy giới vẹn gìn mà tu
NĂM khuyên phải công phu, công quả
SÁU khuyên thân hỷ xả độ mình
BẢY khuyên chí kỉnh chí thành
TÁM khuyên lễ độ nên hình trò Tiên
CHÍN khuyên giữ vẹn pháp quyền
MƯỜI khuyên đừng để Mẹ phiền
không nên.
3. Tại Trung
Hưng Bửu Tòa, Thứ Ba 24-02-1959 (17-01 Kỷ Hợi), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
MỘT khuyên nhớ giữ gìn trung chính
HAI khuyên tuân mệnh lệnh giáo quyền
Lúc nào lòng cũng Thiêng Liêng
Thông
công nối lại bảo giềng độ sanh.
BA
khuyên được công bình đúng đắn
BỐN
khuyên lòng ngay thẳng hòa thân
Thương
đời sớm tối ân cần
Hòa
mình trong đám thiện dân dắt dìu.
NĂM
khuyên giữ Thiên điều luật pháp
SÁU
khuyên cho duy nhứt thánh hình
Nhớ
câu Bồ Tát hữu tình
Chan
đều sức sống đức tin kết liền.
BẢY
khuyên phải bảo yên hàng ngũ
TÁM
khuyên thường huấn dụ nhơn sanh
Xây
nên thánh thể mạnh lành
Viếng
thăm an ủi tình hình suốt thông.
CHÍN
khuyên lo đại đồng sơ bộ
MƯỜI
khuyên chung củng cố nội tình
Trước
là xây dựng cho mình
Sau là hàn gắn bất bình hỏng hư.
*
* Hiền huynh Minh Duy (xã Mỹ Lợi A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Thư ngày 09-7-2016:
“Trong ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO, bản in 2011 của Chương Trình
Chung Tay Ấn Tống, trang 208, có câu: ‘Dĩ gì miếng ngon, của quý mà hại lấy thần hồn.’ Xin vui
lòng giải thích Dĩ gì nghĩa là chi?”
Huệ Khải: Xin chân thành cảm ơn hiền huynh đã giúp chúng tôi phát
hiện lỗi in sai đáng trách này. Bản in 1950 (trang 400, dòng 3) đã in
đúng là Vĩ gì.
Hai chữ Vĩ / Dĩ giọng
miền Nam đọc giống nhau, có lẽ bởi thế mà vị đạo hữu giúp chúng tôi gõ văn bản
đã gõ sai và khi kiểm tra chúng tôi lại trót bỏ sót lỗi này. Vậy, xin hiền
huynh (và quý đạo hữu bạn đọc) sửa lại cho đúng là Vĩ gì.
Trong ĐÔI ĐIỀU
VỀ BÌNH GIẢNG THÁNH GIÁO (Nxb
Tôn Giáo 2016, trang 40), tôi từng trình bày như sau:
“Tiếng
Việt cổ (archaic) là những
lời ăn tiếng nói hiện nay không còn thông dụng trong đời sống, do đó không được
giải thích trong phần lớn các từ điển xuất bản sau này (khoảng từ giữa thế kỷ
20 trở đi).
Đọc thánh giáo, nếu gặp
những từ ngữ lạ, khó hiểu (nhưng không phải là từ Hán Việt), người giảng nên
nghĩ tới tiếng Việt cổ. Bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (hai quyển)
của Huình Tịnh Paulus Của (1834-1907), in tại Sài Gòn hai năm 1895 và 1896, có
thể giúp người giảng tra cứu ý nghĩa một số tiếng Việt cổ.”
Vĩ gì
chính là từ Việt cổ. Paulus Của (quyển II, trang 551) giải thích vĩ là sá chi. Sau đó, ông cho thí dụ: Vĩ
chi: Sá chi, quản chi. Vậy
chúng ta hiểu vĩ gì nghĩa là sá gì, sá chi, đáng gì đâu, có đáng chi...
Đại Thừa Chơn Giáo, bản in 1950, trang 401, dòng 4, dịch thoát vĩ gì là a quoi bon...? (có ích gì...?, để làm gì...?).
Nhân đây, xin quý đạo hữu vui lòng sửa thêm các lỗi in
sai trong ĐẠI THỪA CHƠN
GIÁO (ấn bản 2011) như sau:
Lưu ý: 5 nghĩa là dòng 5
đếm từ dưới lên.
Trang
|
Dòng
|
Đã in
|
Xin sửa là
|
7
|
14
|
trước cơ phổ hóa
|
trước khoa phổ
hóa
|
7
|
5
|
người trở về
|
người quày trở
về
|
8
|
2
|
mơ hồ
|
mờ hồ
|
13
|
11
|
tàng linh
|
tàn linh
|
17
|
6
|
châu mày
|
chau mày
|
17
|
9
|
lưu tràng
|
lưu tràn [truyền]
|
41
|
5
|
quy quyên
|
quy nguyên
|
59
|
3
|
cầu bảo
|
cầu bão
|
65
|
11
|
tỷ ngũ hành
|
tỵ ngũ hành
|
74
|
4
|
lựa vèo
|
lựa dèo
|
90
|
3
|
Dục lòng
|
Giục lòng
|
102
|
12
|
giàu nghèo
|
nghèo giàu
|
117
|
3
|
cháy biết hao
|
cháy biết bao
|
121
|
12
|
Khó gay
|
Khổ gay
|
126
|
13
|
lui phù
|
lui bùa
|
128
|
13
|
đồ ty thiếu
|
đồ ti thiếu
|
128
|
14
|
Vãng trần
|
Vãng Trần
|
134
|
10
|
lựa vèo
|
lựa dèo
|
159
|
2
|
tội quả
|
tội quá
|
163
|
11
|
thì ít nữa cá ấy
|
thì cá ấy
|
163
|
12
|
Ở nơi thủy mà muốn
|
Ít nữa muốn ở nơi thủy mà
|
164
|
14
|
quả tinh cầu
|
quả linh cầu
|
177
|
2
|
bế tắc
|
tế tắc
|
183
|
5
|
đùa theo
|
vùa theo
|
187
|
11
|
dương quang
|
dương quan
|
193
|
1
|
NHẬP ĐịNH
|
NHẬP ĐỊNH
|
194
|
10
|
lại mà một
|
lại là một
|
195
|
12
|
vạn bang
|
vạn ban
|
208
|
7
|
Dĩ gì miếng ngon
|
Vĩ gì miếng ngon
|
213
|
3
|
Sao kêu là vũ trụ
|
Sao kêu vũ trụ
|
227
|
6
|
ngã giả
|
ngã dã
|
229
|
3
|
nào khó khác
|
nào có khác
|
232
|
9
|
Phép tu biến
|
Phép biến hóa
|
249
|
10
|
trên cành
|
trên nhành
|
263
|
7
|
nhọc nhằn
|
nhọc nhành [nhằn]
|
Giải thích một vài từ trong bảng đính
chính trên đây:
dèo: Tình hình, tình thế; lựa dèo: Tùy theo hoàn cảnh. / đồ
ti thiếu 徒卑少: Trẻ nhỏ hèn mọn. / vãng Trần 往陳: Đi qua nước Trần. / tội quá 罪過: Tội lỗi. / tế tắc 蔽塞: Che
lấp. / vùa theo: Hùa theo, a dua
theo. / dương quan 陽關 (yang pass, yang border): Cửa ải của
dương khí, là ranh giới giữa tiên thiên và hậu thiên. Tinh (sperm) chưa lọt ra khỏi cửa ải này thì
còn là dương tinh; đã lọt ra ngoài rồi thì là âm tinh, trược tinh. Người tu thiền
giữ gìn dương tinh để “luyện tinh hóa
khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư hoàn vô” (Đại Thừa Chơn Giáo). Người buông thả
theo sắc dục (sex) thì thỏa thích cho
tinh xuất ra ngoài qua nẻo dương quan. / vạn
ban 萬般:
Muôn hạng muôn loại, mọi thứ mọi điều.
*
* Văn
Uyển kính gởi hiền huynh Lê Hữu Thành
(họ đạo Trung Hòa, Dak Lak):
Ban Ấn Tống cảm tạ hiền
huynh đã gởi cho xem tập di cảo thơ của tiền bối Ngọc Giáo Sư Mai Dinh
(1920-1986). Trong tập thơ này chúng tôi thấy tiền bối Mai Dinh có chép lại bài
thơ thất ngôn bát cú của tiền bối Giáo Sư CHƠN KHAI NGUYỄN QUANG CHÂU
(1912-1955), cảm tác trong lúc bị giam giữ tại nhà lao Nghĩa Hành (Quảng Ngãi).
Để góp thêm tài liệu
cho trang sử đạo miền Trung, chúng tôi in lại nơi đây bài thơ của Giáo Sư Chơn
Khai và bài họa lại của Giáo Sư Mai Dinh. Các giải thích từ ngữ do chúng tôi
thêm vào.
HẬN LÒNG
Một mình nghĩ quẩn lại lo quanh
Thức chẳng an tâm, ngủ chẳng đành
Tưởng nợ giang sơn lòng thảm thiết
Nhớ ơn cúc dục (1) dạ buồn tanh
Xót tình cốt nhục sầu trăm ngả
Bận nghĩa chi lan (2) lệ suốt canh
Tri kỷ hằng mơ cơn gió bụi
Mảnh hồn trong trắng gởi đêm thanh.
Tiền bối Mai Dinh họa lại:
SÁ GÌ KHỔ NHỤC
Đường đời hiểm trở lắm eo quanh
Dù mấy khó khăn vẫn cũng đành
Tiến bước sá gì tuồng khổ nhục
Quên thân nào kể bả hôi tanh
Hy sinh vì Đạo vui muôn thuở
Dũng cảm thương đời mộng suốt canh
Luy tiết (3) càng thêm bền chí cả
An nhiên trổi khúc hát thanh thanh.
(1) cúc dục 鞠育: Nuôi nấng dạy dỗ; công ơn
cha mẹ. (2) chi lan 芝蘭: Bạn
bè tốt, ở gần được thơm lây. (3) luy tiết
縲絏 (累紲, 縲紲):
Dây màu đen, thời xưa dùng để trói kẻ có tội; ám chỉ xiềng xích, tù ngục.
Nhân đây chúng tôi xin
nói thêm: Căn cứ theo bản thảo Nhịp Chân
Buổi Ấy Còn Vang Bây Giờ của Thượng Giáo Sư Phạm Văn Liêm: Vào năm Canh Dần
(1950), tại nhà lao Nghĩa Hành, ngoài tiền bối Chơn Khai còn có tiền bối Trương Sư Xuyên (1924-1990)… Cũng
may, bấy giờ nhà lao Nghĩa Hành đối xử với các tiền bối tử tế, cho ăn uống tạm
đủ, việc lao động tương đối dễ dàng...
Kính thưa hiền huynh
Lê Hữu Thành, về phần còn lại của di cảo thơ, sau này chúng tôi tùy theo điều
kiện phù hợp sẽ trích đăng Văn Uyển.
Ban Ấn Tống kính chúc hiền huynh và gia đình an lạc.