TỪ VIỆT
CỔ TRONG
TU CHƠN THIỆP QUYẾT
Kinh kệ, thánh giáo của Minh Lý Đạo và Cao Đài Giáo
cũng như sấm giảng của Phật Giáo Hòa Hảo có điểm chung đáng chú ý là đều dùng
khá nhiều từ Việt cổ (archaic), tức là những từ ngữ không còn thông dụng trong lời ăn tiếng nói
hằng ngày,([1]) và không còn
được ghi nhận trong phần lớn các bộ từ điển hay tự điển tiếng Việt xuất bản từ
nửa sau thế kỷ Hai Mươi trở đi, ngoại trừ bộ Tự Điển Việt Nam, quyển Thượng và Hạ, do Lê Văn Đức cùng một nhóm
văn hữu biên soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, nhà sách Khai Trí xuất bản tại Sài
Gòn năm 1970. Bộ này ghi nhận khá nhiều mục từ thuộc loại từ cổ, nhưng không
ghi chú bên cạnh rằng đó là từ cổ.
Bằng cách sử dụng từ Việt cổ trong kinh kệ, thánh
ngôn, và sấm giảng, phải chăng ba nền tôn giáo bản địa phát sinh ở Nam Kỳ đã và
đang duy trì một số lời ăn tiếng nói lâu
đời của dân tộc, không để cho mai một? Tuy nhiên, tín đồ thường không hiểu
nghĩa từ Việt cổ, mà kinh sách trong đạo nếu thiếu sót phần giảng giải thì dễ
nảy sinh việc hiểu sai, rồi có người tự ý sửa chữa làm sái lạc nghĩa lý câu
kinh.([2])
Sáu từ Việt cổ trong Tu Chơn Thiệp Quyết
Ý nghĩa sáu từ Việt cổ
sau đây chủ yếu căn cứ theo bộ Đại
1. đòi (đa 多: many): Nhiều; đồng nghĩa với
ghe. Thí dụ: Đòi phen (ghe phen) là
nhiều lần (many times); phen này là lần này (this time). – đòi kiếp (đa kiếp 多劫: many kalpas): Nhiều kiếp.
* Đã đòi kiếp dày công nhọc sức. (02:1)([3])
2. hiếm (đa 多: many): Nhiều.([4])
* Máy kiền khôn hiếm chỗ cam go. (14:2)
3. mặc may (depending on chance): Cầu may; hú họa; tùy theo may rủi, hên xui.
* Mong thành Thiên Đạo mặc may làm gì? (54:2)
4. mựa (mạc 莫: Don’t do it.): Đừng; chớ. Từ dùng để ngăn
cấm (prohibition).
* Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai. (05:4)
* Khuyên thường giữ dạ, mựa hầu sai ngoa. (08:4)
* Đưa người đến bến mựa cành nanh. (Kệ V: 8)
5. trối (bất tại hồ 不在乎: irrespective of; regardless of):
Trối thây; trối kệ; thây kệ; mặc kệ; không thèm quan tâm.
* Trối những kẻ khinh danh Đạo Cả. (41:1)
6. tua (tu 須: should): Nên, hãy nên.
* Thì tua
gắng chí dãi dầu tuyết sương. (16:4)
* Mười, khuyên tua hỷ xả lỗi người. (60:2)
([1]) Khái
niệm cổ ở đây rất tương đối, và tôi
muốn nhấn mạnh tới tính chất không còn
thông dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Theo giới sưu tập đồ cổ, một
đồ vật có khoảng năm mươi năm tuổi trở lên thì gọi là đồ xưa; khoảng một trăm tuổi trở lên thì gọi là đồ cổ. Nhưng với ngôn ngữ một dân tộc
thì không thể nào ấn định một mức thời gian cụ thể như thế.