Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

GIAO CẢM (Chú Giải Kinh Sám Hối, Huệ Khải soạn)

 


GIAO CẢM

(Chú Giải Kinh Sám Hối, Huệ Khải soạn, ấn tống 2024)

Minh Lý Ðạo (Minh Lý Thánh Hội, có thánh sở Tam Tông Miếu ở số 82 Cao Thắng, quận 3) được các Ðấng thiêng liêng lần lượt giáng cơ ban Kinh Sám Hối trong hơn bảy tháng, bắt đầu từ Chủ Nhật 19-4-1925 (27-3 Ất Sửu) đến Thứ Bảy 21-11-1925 (06-10 Ất Sửu) thì hoàn kinh, gồm có 420 câu thơ song thất lục bát, với trình tự như sau (đánh số nhảy các câu 125-148, nơi *Ðức Quan Âm Bồ Tát, ngày 24-6-1925):

Ðức Thái Thượng Đạo Tổ (19-4-1925), câu 1-24;

Ðức Thái Thượng Lão Quân (22-4-1925), câu 25-52;

Ðức Quan Âm Bồ Tát (26-4-1925), câu 53-64;

Ðức Nam Cực Chưởng Giáo (05-5-1925), câu 65-72;

Ðức Quan Thánh Ðế Quân (22-5-1925) câu 73-88;

Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật (ngày ?), câu 89-100;

Ðức Quan Âm Bồ Tát (14-6-1925), câu 101-104;

*Ðức Quan Âm Bồ Tát (24-6-1925), câu 105-124; 149-160;

Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (04-7-1925), câu 161-212;

Ðức Khổng Phu Tử (20-7-1925), câu 213-284;

Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (08-8-1925), câu 285-308;

Đức Tề Thiên Đại Thánh (25-8-1925), câu 309-356;

Đức Thập Ðiện Minh Vương (27-8-1925), câu 357-376;

Ðức Lữ Tổ (09-9-1925) và Đức Thái Ất Thiên Tôn (25-9-1925), câu 377-392;

Đức Alfred Aya (21-10-1925), câu 393-424;

Ðức Quan Âm Bồ Tát (21-10-1925), câu 425-440;

Ðức Vân Trung Tử (21-11-1925), câu 441-444.

Sau khi các Đấng ban xong Kinh Sám Hối, Ðức Ðông Phương Lão Tổ giáng cơ ban thêm Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, gồm 14 câu lục bát.

Đến Thứ Sáu 27-11-1925 (12-10 Ất Sửu) Đức Đông Huê Đế Quân giáng cơ dạy: “Nhơn ta đi tuần, thấy chư nhu thiết đàn, ta giáng tại thử đặng chứng từ đầu. Nghe đọc Kinh Sám Hối tới chữ nhơn,([1]) chẳng đủ nghĩa. Để ta cho thêm ít câu.”

Kế đó Đức Đông Huê Đế Quân ban thêm sáu khổ thơ (câu 125-148) chen vào giữa hai đoạn *Đức Quan Âm Bồ Tát đã tả ngày 24-6-1925. Như thế Kinh Sám Hối tổng cộng 444 câu.([2])

Thứ Sáu 08-7-1927 (10-6 Ðinh Mão), viết bài Lược Thuật Về Việc Tiếp Kinh, vị trụ trì đầu tiên của Tam Tông Miếu là ngài Minh Chánh ([3]) cho biết:

“Một khi kia, đến cầu kinh giùm một người bằng hữu thọ bịnh tại Thủ Thiêm, có Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng xuống mà cho một khoản đầu Kinh Sám Hối.

“Sau lần lần, mỗi khi cúng, có Tam Giáo Ðạo Chủ, hoặc là chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, hoặc là Thập Ðiện Minh Vương giáng đàn cho tiếp Kinh Sám Hối.

“Cũng tưởng rằng Thần Tiên cho kinh đó đặng làm phước giúp người mà thôi, không dè Ðức Văn Tuyên Vương giáng dạy chúng tôi phải kiếm một cảnh chùa, đặng ngày sóc, ngày vọng, đến đó dưng hương và sám hối.

“Rất may cho chúng tôi mới gặp ông chủ chùa và ông Giáo Thọ ([4]) tại Linh Sơn Tự,([5]) rất hảo tâm, vừa nghe qua những lời của chúng tôi nói, thì cho là việc phải, nên vui lòng cho phép cúng tại chùa. Nhờ nơi đó, nên mỗi tháng, đến ngày 14 và 30 (tháng thiếu 29) âm lịch, có chỗ thiết lễ mà cúng và tụng Kinh Sám Hối cho người biết điều phải mà làm theo.” ([6])

Khi mới thành lập nền tảng phổ độ của đạo Cao Ðài vào năm 1926 (Bính Dần), Ðức Chí Tôn dạy các tiền khai Đại Đạo đến Minh Lý Đạo thỉnh kinh. Trong lúc ấy các tiền khai ở Minh Lý Đạo cũng được Ơn Trên giáng cơ dạy chuẩn bị truyền kinh. Cùng với một số kinh khác, Kinh Sám Hối từ Minh Lý Đạo đã được truyền sang đạo Cao Đài như thế.([7])

*

Mở đầu bài Kinh Sám Hối (ngắn) là câu “Quỷ lục dục thất tình cám dỗ ...Thật vậy, mỗi người sống ở thế gian đều có đủ sáu dục và bảy tình, nên hễ sẩy ra một chút là lập tức tạo cho mình ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ba nghiệp này mãi xoay vần, ràng buộc con người vào vòng đau khổ triền miên vì luân hồi nhân quả báo ứng. Do đó, Ơn Trên ban Kinh Sám Hối để truyền giảng lời lành khuyến thiện, dạy rõ luật nhân quả công bình để con người tỉnh ngộ, rèn tâm sửa nết.

Sám hối (kṣamā) là một từ ghép, do sám (sám ma 懺摩 dịch âm kṣamā) và hối (hối hận, ăn năn; dịch nghĩa kṣamā). Sám hối vốn là sự tha thứ, khoan dung (forgiveness, tolerance), còn nghĩa là sự hối lỗi (repentance). Sám hối là tự mình nhận lỗi, có thiện chí sửa lỗi, và cầu xin người khác tha thứ, nhất là sự tha thứ của Thiêng Liêng. Sám hối rất quan trọng và cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh. Đó là cách giải trừ (hoặc giảm bớt) những nghiệp ác mà bản thân mỗi người đã tích lũy qua hành động, lời nói và suy nghĩ (thân, khẩu, ý). Sám hối cũng là cách để mỗi người mở lòng yêu thương, từ bi, và trí huệ. Vì thế, sám hối hiển nhiên lúc nào cũng rất cần thiết cho mọi người, nhất là người tu. Đức Chí Tôn dạy: “Mỗi khi đứa nào lầm lỡ một việc gì, rán mà sám hối, ăn năn.” ([8])

Giúp môn sanh đối trị lỗi lầm trong kiếp sống hiện tại, Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy: “Tội lỗi hiện kiếp có thể dùng hình thức sám hối để xóa mờ…” ([9])

Giúp bổn đạo đối trị nghiệp chướng gây ra trong quá khứ, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy: “Các em cũng còn duyên phúc được nương ngụ nơi đây, gần bạn đạo, hãy cố gắng đường ngay lối thẳng, đừng nghe lời gièm siểm tiếng thị phi, hoặc những cạm bẫy bên ngoài xui giục mà gây tội lỗi. Mỗi ngày ráng dành chút thì giờ sám hối cho nhẹ tội tiền khiên.” ([10])

Đức Hồng Đức Chơn Tiên dạy: “Hằng đêm tụ hội lại thánh tịnh tụng Kinh Sám Hối và cầu an.” ([11])

Đối với người tu bước vào hàng Thiên đạo đại thừa (làm hành giả, công phu, tịnh luyện), sám hối lại càng quan trọng biết bao, và là nghi thức không thể thiếu mỗi khi mở đầu một khóa tu tịnh (thiền). Thật vậy, Đức Đông Phương Lão Tổ tha thiết để lời khuyến dạy môn sanh đã thọ tâm pháp Cao Đài như sau: “Lễ sám hối là một thang thuốc khử độc diệt trùng, chữa bịnh trầm kha cho các đệ tử. Nếu không rán mà uống, không nhận là hay, thì Phật Tiên cũng ôm trán mà than. Ôi! Nước mắt vì thương trò chảy xuống cũng cam lấy lòng buồn, chớ biết sao mà cứu được? Các trò rán, rán đi!” ([12])

Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy các tịnh sĩ: “Nếu sơ tâm lầm lỗi, sớm sám hối cải chừa. Nhứt cử nhứt động đều có thần minh hộ trì chứng giám.” ([13])

*

Người La Mã thời xa xưa có câu cách ngôn này: Errare humanum est; rồi người Anh dùng nó làm một thành ngữ là To err is human(Con người thì lầm lỗi). Khi nói như vậy, người La Mã và người Anh xác định rằng bản chất con người là yếu đuối, có xu thế dễ sa vào tội lỗi. Nói khác đi, trong mỗi con người có tính vấp ngã tiềm tàng (the inherent fallibility).

Chính vì vậy, sanh ra đời, mang thân phận con người là đã ở trong “tư thế” sẵn sàng phạm lỗi, tạo nghiệp. Vì lòng từ bi, Đức Đông Phương Lão Tổ cảnh báo điều nguy hiểm ấy như sau: “Ở đời mạt kiếp này, đã là người thì không ai khỏi lỗi. Nhích chơn, hả miệng đã gây nên tội lỗi rồi, cần gì phải hành động. Liếc trừng một cái, xủ mặt một khi, đã gieo vào lòng mình một hay nhiều hạt giống nhân quả, đã phóng vòng dây đến người, rồi sẽ báo trả với nhau.” ([14])

Đã là người thế gian, ai mà không lỗi lầm. Đây là lý do mọi tôn giáo đều có pháp môn sám hối, đều có kinh sám hối, đều khuyến khích con người hằng ngày hãy biết sám hối. Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, đạo Phật và đạo Chúa đều dạy rằng con người cần sám hối để được thứ tha tội lỗi.

Kinh Đức Phật Dạy Xá Lợi Phất Về Sám Hối (Phật Thuyết Xá Lợi Phất Hối Quá Kinh 說舍利弗悔過經) chép lời Đức Phật Thích Ca dạy đại đệ tử là Xá Lợi Phất sự cần thiết phải xưng tội và sám hối như sau: “Nếu có trai lành, gái lành nào không muốn sa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ thì họ cần phải sám hối lỗi lầm, không nên che giấu.” ([15])

Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương (Tứ Thập Nhị Chương Kinh 四十二章經), ở Chương Năm: Chuyển Nặng Thành Nhẹ (Chuyển Trọng Linh Khinh 轉重令輕), Đức Phật Thích Ca dạy: “Nếu người có li, t hiểu biết sai, bỏ ác làm lành, thì tội sẽ tự nhiên tiêu diệt, như bịnh mà toát mồ hôi thì bịnh dần dần thuyên giảm vậy.([16])

Đức Chúa Giê-su Ki-tô dạy mọi người hãy biết ăn năn, sám hối để được thứ tha. Chúa dạy rằng các Đấng trên cõi trời đều vui mừng nếu người thế gian đã lầm lỗi mà biết sám hối, ăn năn (Lu-ca 15:7): “Cũng y như thế, Ta bảo các người rằng trên trời sẽ vui mừng hơn vì có kẻ tội lỗi biết sám hối ... ([17])

Rồi Chúa nhắc lại (Lu-ca 15:10): “Cũng y như thế, Ta bảo các người rằng trước mặt các thiên thần, Thiên Chúa sẽ vui mừng hơn vì có kẻ tội lỗi biết sám hối.” ([18])

*

Các Hội Thánh Cao Đài có vài bản Kinh Sám Hối dài ngắn khác nhau. Riêng bản kinh truyền từ của Minh Lý Đạo (444 câu song thất lục bát) lại phổ biến hơn cả.([19]) Nhằm cung cấp một bản chú giải khả dĩ giúp tín đồ dễ hiểu nghĩa lý sâu kín của Kinh Sám Hối, tôi hiệu đính và ấn tống Chú Giải Kinh Sám Hối vào đầu xuân Giáp Thìn (2024). Bản chú giải này trước đây in kèm với khảo luận Tìm Hiểu Kinh Sám Hối của hiền huynh Thanh Căn Phan Ngọc Lợi (1951-2019), và lấy nhan đề chung là Tìm Hiểu Kinh Sám Hối (80 trang), Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo liên kết nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội: 2009, 2010, 2011); nay tôi tách ra, sửa chữa và bổ khuyết nội dung. Khảo luận của Bảo Học Quân Thanh Căn cũng được hiệu đính và tăng bổ, in riêng thành tập Tìm Hiểu Kinh Sám Hối (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2024, 80 trang).

Với trọn tấc lòng thành kính biết ơn tất cả quý ân nhân gần xa luôn luôn thương mến, tin cậy, và ủng hộ Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo suốt mười sáu năm nay, tôi trân trọng đặt vào tay quý đạo hữu tập sách Chú Giải Kinh Sám Hối này và xin chúng ta cùng nhau hướng tâm về một trăm năm khai đạo Cao Đài (1926-2026) để cùng nhau tinh tấn tu học, hành đạo, phụng sự nhơn sanh.

Nhiêu Lộc, năm Giáp Thìn (2024)

HUỆ KHẢI


([1]) Câu 124: Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.

([2]) Kính thành nhớ ơn hai vị đạo trưởng Minh Lý Đạo là: a/ Quyền Siêu Tịnh Sư, Tổng Lý Tường Định, thế danh Lê Chơn Huệ (1929-2021); b/ Vĩnh Tịnh Sư, Hiệp Lý Đại Bác, thế danh Lâm Lý Hùng (1939-2021). Hai vị đã chỉ dẫn rõ trình tự ban Kinh Sám Hối. Nhờ thế, khi chú giải Kinh Sám Hối, Huệ Khải có thể ghi rõ ngày tháng ban trao từng đoạn kinh căn cứ theo bản gốc của Minh Lý, và ghi rõ hồng danh của Đấng đã giáng tả đoạn đó. Việc này cũng để lưu ý nhơn sanh đừng tùy tiện sửa lời kinh của các Đấng.

([3]) Khi xưa, Đức Chúa Giê-su chọn mười hai Thánh tông đồ thay Chúa đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Sau này, để khai sáng Minh Lý Đạo, Ơn Trên chọn mười hai vị có tên thánh (thánh danh 聖名) liệt kê trong hai câu đối này: MINH Chánh Giáo Đạo Truyền Thiện Hạnh / LÝ Trực Đàm Đức Hóa Cường Ngôn. Qua đó, kể tên các vị theo thứ tự như sau: 1/ Ngài Âu Kích (1896-1941), tự Âu Kiệt Lâm, thánh danh MINH CHÁNH, đắc quả Minh Chánh Hộ Pháp. 2/ Ngài Nguyễn Văn Xưng (1891-1957), thánh danh MINH GIÁO, đắc quả Minh Chiếu Chơn Quân. 3/ Ngài Nguyễn Văn Đề (1893-1925), thánh danh MINH ĐẠO, đắc quả Khai Thiền Chơn Nhơn. 4/ Ngài Lê Văn Ngọc (1887-1965), thánh danh MINH TRUYỀN, đắc quả Bảo Đức Chơn Nhơn. 5/ Ngài Nguyễn Văn Miết (1897-1972), thánh danh MINH THIỆN, đắc quả Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát. 6. Ngài Trương Văn Ký (1907-1984), thánh danh MINH HNH, đắc quả Đăng Minh Chơn Nhơn. 7/ Ngài Võ Văn Thạnh (1895-1976), thánh danh MINH TRC. Năm 1948, Ngài tách ra và lập Thiền Tịnh Đạo Tràng Phật Bửu Tự (số 80/2 đường Cao Thắng, quận 3, Sài Gòn). Sau khi thoát xác, Ngài về chầu Tam Giáo Tổ Sư. 8/ Ngài Nguyễn Hữu Hay (1899-1961), thánh danh MINH ĐÀM, đắc quả Quảng Tế Chơn Nhơn. 9. Ngài Nguyễn Văn Hoài (1904-1945), thánh danh MINH ĐC, đắc quả Ly Cấu Chơn Nhơn. 10/ Ngài Nguyễn Minh Đức (1884-1964), thánh danh MINH HÓA, đắc quả Minh Quang Chơn Thánh. 11. Ngài Lâm Thiên Hứa (1907-1994), thánh danh MINH CƯNG, đắc quả Hạnh Nguyên Chơn Thiền. 12/ Ngài Lê Kim Bằng (1885-1967), thánh danh MINH NGÔN, đắc quả Phổ Thiện Chơn Nhơn.

([4]) giáo thọ, cũng gọi giáo thọ sư 教授師 là ông thầy giảng giới luật (a teacher of rules, discipline, or morals) cho người thọ giới (giới tử 戒子; thụ giới chi đệ tử 受戒之弟子). Dùng như danh từ, giáo thọ là thầy dạy (teacher); dùng như động từ, giáo thọ là truyền thụ kiến thức, dạy học (to teach). Tiếng Sanskrit gọi vị giáo thọ là ācārya (người Hoa dịch âm là a xà lê). Ghép cách dịch nghĩa với dịch âm, gọi là giáo thọ a xà lê 教授阿遮利.

([5]) Nay ở số 149 Cô Giang, quận 1. (HK chú)

([6]) Minh Lý Đạo, Kinh Bố Cáo. Sài Gòn 1973, tr. II.

([7]) Theo tiền bối Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980), bốn vị đến Minh Lý Đạo thỉnh kinh là các tiền khai Lê Văn Trung (1876-1934), Phạm Công Tắc (1890-1959), Vương Quan Kỳ (1880-1940), và Cao Quỳnh Cư (1888-1929). xem: Tạp chí Cao Đài Giáo Lý, số 77. Sài Gòn: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (CQPTGL CĐG VN) xuất bản, 1972, tr. 10.

([8]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Thứ Tư 27-8-1969 (15-7 Kỷ Dậu).

([9]) CQPTGL CĐG VN, Chủ Nhật 03-4-1977 (15-02 Đinh Tỵ).

([10]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Thứ Năm 16-11-1967 (15-10 Đinh Mùi). Đức Hiển Thế Đạo Nhơn thế danh là Phan Văn Thanh (1890-1950). Sinh thời, ngài hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (đường Nguyễn Khoái, quận 4, Sài Gòn).

([11]) Thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo, Chủ Nhật 10-11-1974 (27-9 Giáp Dần). Ngài Võ Hồng Sa (1880-1946) sinh thời tu theo pháp môn Chiếu Minh, đắc quả Thái Thanh Đồng (1953), sau thăng quả vị Hồng Đức Chơn Tiên (1954). Nhà riêng của ngài nay là thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo (xã Tân Thới, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ).

([12]) Tam Tông Miếu, Thứ Tư 08-12-1965 (16-11 Ất Tỵ).

([13]) CQPTGL CĐG VN, Thứ Sáu 28 rạng Thứ Bảy 29-12-1979 (10 rạng 11-11 Kỷ Mùi). Ngài Lê Văn Tiểng (1843-1913) tu Minh Sư tới phẩm Thái Lão Sư, đạo hiệu là Lê Đạo Long. Ngài có công khai sáng chi Minh Đường, lập Vĩnh Nguyên Tự vào năm 1908. Ngài đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Từ năm 1926, Vĩnh Nguyên Tự (nay ở xã Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) trở thành thánh sở Cao Đài.

([14]) Tam Tông Miếu, Thứ Tư 08-12-1965 (16-11 Ất Tỵ).

([15]) Phật ngứ Xá Lợi Phất: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ý bất dục nhập nê lê, cầm thú, bệ lệ trung giả, chư sở tác quá giai đương hối quá chi bất đương phúc tàng.佛語舍利弗: 若有善男 , 善女人, 意不欲入泥犁禽獸薜荔中者, 諸所作過皆當悔過之不 當覆藏. Ghi chú: 1/ Nê lê 泥犁 là địa ngục. 2/ Bệ lệ 薜荔 là ngạ quỷ (quỷ đói).

([16]) Nhược nhơn hữu quá, tự giải tri phi, cải ác hành thiện, tội tự tiêu diệt, như bệnh đắc hãn, tiệm hữu thuyên tổn nhĩ. 若人有過, 自解知非, 改惡行善, 罪自消滅, 如病得汗, 漸有痊損耳.

([17]) In the same way, I tell you that there will be more joy in heaven over one sinner who repents ... (International Standard Version)

([18]) In the same way, I tell you that there is joy in the presence of God’s angels over one sinner who repents. (International Standard Version, 2014)

([19]) Xem thêm: Giải Nghĩa & Minh Họa Kinh Sám Hối. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2023, tranh 4 màu (120 trang). Quyển số 148 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.