MÓN QUÀ CUỐI NĂM
HUỆ KHẢI
1. Giao cảm
Buổi chiều cuối trung tuần tháng 12-2021, ông bạn hiền (cũng là bạn già
lâu năm) ở báo Công Giáo Và Dân Tộc ghé nhà tặng tôi tập sách TÌM HIỂU TỪ VỰNG
CÔNG GIÁO của linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, tháng 12-2021,
dày 772 trang 16,5x24 cm, giá bìa 200,000 đồng).
Tiễn bạn ra về, tôi trở vào nhà với tập sách bìa carton, thiết kế trang
nhã. Rọc lớp màng co bao ngoài, lần giở từng tờ giấy couché matt 64 gsm trắng
láng, ngắm nhanh một số trong rất nhiều tranh minh họa, tôi nghĩ tới tấm lòng
của bạn mà cảm kích.
Do công việc chú giải thuật ngữ Cao Đài có liên quan tới Đạo Chúa, nhiều
năm qua tôi hay tra cứu để tìm hiểu thuật ngữ Công Giáo. Những khi không tìm
thấy câu trả lời thỏa đáng trong các từ điển, tôi lại điện thoại cho bạn để
hỏi. Bởi vậy, hễ có từ điển Công Giáo nào mới, uy tín thì bạn lại mang tới nhà
cho tôi dùng. Quyển TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO trước thềm Giáng Sinh năm nay vì
vậy chính là món quà của tình tri kỷ dài lâu.
2. Tản mạn về hai chữ “từ vựng”
Hai chữ “từ vựng” trong nhan đề tập sách e là dễ khiến phần đông đại
chúng bối rối nhưng linh mục Huỳnh Trụ không giải thích, mặc dù soạn giả thừa
biết rằng thời nay trình độ sử dụng tiếng Việt và hiểu biết từ Hán Việt của
phần lớn đồng bào chúng ta rất đáng lo ngại, và thực trạng này vẫn là nỗi bận
tâm của những ai có “thiện chí giữ gìn sự
trong sáng tiếng Việt” như lời soạn giả thổ lộ trong sách (tr. 8).
Chữ 彙
theo Khang Hy Tự Điển đọc là “vị” (于切貴音胃 vu thiết quý âm vị), nhưng nhiều người
Việt quen đọc là “vựng”. Chữ “vị” có nghĩa là phân
loại (classifying, classification),
hoặc là thâu thập, tập hợp lại (collecting,
collection). Thời trước, người Việt hay dùng hai chữ “tự vị / tự vựng” và
“từ vị / từ vựng” theo nghĩa tập hợp các “tự” 字 (hay “từ” 詞) và phân
loại chúng theo thứ tự ABC. Chẳng hạn:
a. Bộ Dictionnaire
annamite hai tập in tại Sài Gòn trong hai năm 1895, 1896 của Huình Tịnh
Paulus Của (1834-1907) có nhan đề chữ Nho là 大南國音字彙, và ghi kèm tiếng Việt là Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị. Theo cách phiên thiết của Khang Hy Tự
Điển, Paulus Của gọi bộ “dictionnaire” của mình là “tự vị”, và ông xếp các từ theo
từng “tự” (chữ). Thí dụ, các từ “người
ta, chúng ta, trai ta, chàng ta, anh ta, ba ta, hai ta, ta tiểu” đều xếp
chung vào chữ “Ta” (tr. 322). Paulus Của cắt nghĩa “tự vị” như sau: “Sách hội [thâu thập] giải chữ nghĩa cùng
các tiếng nói, làm ra từ [từng] bộ, từ [từng] loài.” (tr. 508). Trong
giải thích này, khi viết “sách hội” thì ông dùng cái nghĩa “thâu thập” của chữ
“vị/vựng”; khi viết “làm ra từ bộ, từ loài” thì ông dùng cái nghĩa “phân loại”
của chữ “vị/vựng”.
b. Có thể
nói rằng vào thời xưa hai chữ “tự vị” thông dụng hơn “tự vựng” và thường dùng
để dịch chữ “dictionnaire” mà ngày nay quen dịch là “tự điển” 字典 hay “từ điển” 詞典. Vài thí dụ về “tự vị”:
– Jean-Baptiste Louis Taberd, 南越洋合字彙 / Dictionnarium
anamitico-latinum. India: Serampore, 1838. (Nhan đề quyển
này không ghi tiếng Việt, nhưng dòng chữ Nho trong nhan đề đọc là: Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị.)
– J.M.J.,
Tự Vị An Nam – Pha Lang Sa. / Dictionnaire
annamite-français. Tân Định: Imprimerie de la Mission, 1877.
– Từ
Phát, Hỏi Ngã Tự Vị. Sài Gòn: Nxb
Thanh Quang, 1958.
– Lê Ngọc
Trụ, Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị. Sài
Gòn: Nxb Thanh Tân, 1959.
– Vũ Văn
Kính, Tự Vị Nôm. Sài Gòn: Đại Học Văn
Khoa, 1970.
c. Quyển Digestum (dịch ra tiếng Pháp là “Le
Digeste”) tập hợp tất cả văn bản pháp
luật do đại đế Justinien (482?-565) ban hành ở đế quốc Byzantine trong thời
gian từ năm 529 tới năm 534. Sách này được giới luật học Việt Nam gọi là “Pháp
Luật Vựng Tập”, thì “vựng tập” có nghĩa như sưu tập (collecting), kết tập (compiling).
Từ những mục a, b, c nêu trên, chúng ta
có thể hiểu như sau: Linh mục Huỳnh Trụ không gọi quyển sách của mình là “tự
vị” mà gọi “từ vựng” vì hai lý do: (i) “Vựng” là cách người Việt đọc thay cho
“vị”; (ii) Soạn giả khảo sát các “từ” 詞 chứ không phải “tự” 字 (chữ) như Paulus Của.
Tóm lại, nhan đề TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG
GIÁO cho chúng ta biết linh mục Huỳnh Trụ thâu thập các từ (soạn giả gọi là
“thuật từ”) Công Giáo và xếp theo thứ tự ABC. Ngoài ra, soạn giả gọi nội dung
tập sách của mình là “120 bài” (tr. 8) thay vì 120 mục từ (entries), vì hình thức trình bày quả thật không theo phong cách
soạn mục từ trong các từ điển, mà chính là dạng các bài viết vốn đã đăng mỗi
tháng một kỳ trên nguyệt san Bài Giảng
Chúa Nhật phát hành trong mười năm 2005-2015.
3. Đồng
cảm với “Lời Giới Thiệu” rất khéo
Linh mục Phaolô Nguyễn Thành Sang (Thư
Ký Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) viết “Lời Giới
thiệu” rất khéo, có những điểm đáng chú ý như sau:
“TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO của Cha Stêphanô Huỳnh Trụ là quyển sách minh
giải các thuật ngữ tiếng Việt thông dụng trong đời sống đức tin Công Giáo. (...) Vì thế có thể nói, tác phẩm này là một
nỗ lực tiếp cận chân lý thần linh qua ngôn ngữ nhân linh.” (tr. 5)
“(C)ó thể nói, tác phẩm TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO là công trình của lời, lý và tình.
Lời vì là công trình của một con
người am tường ngôn ngữ Hán Việt. Lý vì là công trình của một Kitô hữu nỗ lực tìm gặp chân lý thần linh.
Tình vì là công trình của một linh
mục hết lòng yêu mến Thiên Chúa, Giáo Hội Việt Nam và văn hóa Công Giáo Việt
Nam.” (tr. 5)
“(V)ới 120 tiểu mục thuộc nhiều lãnh vực khác nhau của đời sống đức tin
Công Giáo, tác phẩm TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO là công cụ rất quý giá và hữu
ích cho các mục tử, những người giảng dạy và nghiên cứu, các chủng sinh, các tu
sĩ, các sinh viên thần học, các giáo lý viên, cũng như mọi Kitô hữu và những
ai muốn tìm hiểu văn hóa Công Giáo.” (tr.
6)
Tôi nhấn mạnh dòng chữ “những ai muốn tìm hiểu văn hóa Công giáo”
vì quả thật tôi (người tín hữu Cao Đài) thuộc vào thành phần này. Tập sách từ
vựng của linh mục Huỳnh Trụ phù hợp mối quan tâm bấy lâu của tôi là tìm hiểu
thuật ngữ Đạo Chúa và soi chiếu các thuật ngữ này với cách dùng trong luật đạo và
thánh giáo Cao Đài.
Theo góc nhìn nào đó, có thể thấy rằng
đạo Cao Đài mang tính liên tôn. Thật vậy:
Đức Giêsu được tôn kính trên bàn thờ Cao
Đài (Thiên bàn), được kính cẩn xướng hồng danh “Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn”
mỗi khi đọc sớ trước Thiên bàn.
Đặc biệt, ngày 24-02 Tân Mùi (Thứ Bảy
11-4-1931), Đức Thể Liên Tiên Nữ giáng cơ ban cho bài kinh tụng nhan đề Kính Lạy Đức Gia Tô Giáo Chủ gồm hai
mươi câu lục bát. Sau đó, thánh thất Định Tường in bài này trong cuốn Kinh Nhựt Thời (Sài Gòn: nhà in Xưa Nay,
1932, tr. 27) như sau:
Lạy cầu Con Một Chúa Cha,
Gia
Tô cứu thế xót xa tôi cùng.
Cũng
vì nơi tội Tổ Tông,
Ngôi
Hai phải dụng máu hồng rửa tan.
Chúng
tôi ngoại giáo khổn nàn,
Lòng
theo ma quỷ tin càn tưởng vơ.
Xa
xuôi khác cõi cách bờ,
Đông
Dương một cõi thiên thơ chưa tường.
Cúi
xin chỉ mối đem đường,
Nước
Cha chầu chực xót thương trao lời.
Nước
Cha chính ngự Ngôi Trời,
Chúa
Con ngai hữu đời đời hiển vang.
Bởi
nơi Người thác rõ ràng,
Mà
nên sống lại đặng ban ơn lành.
Chúng
tôi muôn tội đã đành,
Vì
chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha.
Cả
kêu một tiếng lạy Cha,
Chúng
con biết tội xin tha con mà.
Lạy
cầu Con Một Chúa Cha,
Gia
Tô cứu thế xót xa tôi cùng.
Đạo Chúa cùng với Tam Giáo (Nho, Thích,
Lão) kết thành Tứ Giáo và Tứ Giáo được đạo Cao Đài kế thừa, xiển dương trong sứ
mạng cứu độ Kỳ Ba. Thế nên, tôi luôn chia sẻ với đồng đạo áo trắng của mình
rằng người Cao Đài muốn hoằng pháp Cao Đài thì ngoài Tam Giáo còn phải học hỏi Đạo
Chúa thật nhiều. Như thế, TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO của linh mục Huỳnh Trụ rất
nên có sẵn trong tủ sách gia đình các tín hữu Cao Đài, nhất là trong thư viện
các cơ sở đào tạo của đạo Cao Đài.
4. Đồng
cảm với “Lời Nói Đầu” có tình có lý
Trong “Lời Nói Đầu”, linh mục Huỳnh Trụ
bày tỏ:
“TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO là một nỗ lực đóng góp nhằm làm rõ ý
nghĩa một số thuật ngữ dùng trong giới
Công Giáo, đặc biệt là những từ Hán Việt,
ngõ hầu độc giả có thể lựa chọn sử dụng những từ ngữ này trong những lãnh vực
có liên quan đến tôn giáo, nói hoặc viết cách tốt hơn.” (tr. 7)
Thật ra, “làm rõ ý nghĩa một số thuật ngữ (...),
đặc biệt là những từ Hán Việt” để có thể “nói hoặc viết cách tốt hơn” cũng là điều đáng phải làm trong đạo
Cao Đài. Là tôn giáo xuất phát từ đất Nam Kỳ, tiếng Việt và từ Hán Việt được
ghi chép theo cách phát âm của người miền Nam mà không có chữ Nho kèm theo, thế
nên các văn bản, kinh kệ, v.v... trong đạo Cao Đài dễ sai chánh tả, khiến cho
câu văn, câu kinh lạc nghĩa hoặc vô nghĩa.
Ở hai đoạn khác, linh mục Huỳnh Trụ giãi
bày:
“Do đó, khi khảo sát một số thuật từ nào đó quen dùng trong sinh hoạt của
cộng đồng Công Giáo (...), chúng tôi
không muốn can thiệp trực tiếp vào sự phát triển của ngôn ngữ dân gian (...). Nhưng chúng tôi chỉ nhằm đóng góp vào
sự phát triển của ngôn ngữ văn hóa trong Giáo Hội mà cụ thể là về phương diện
từ vựng – một phần của ngôn ngữ văn hóa mà thôi.” (tr. 7)
“Đây không phải là ‘tác
phẩm nghiên cứu về ngôn ngữ học’ lại càng không phải là ‘tiếng
nói của giáo quyền’, nhưng đơn giản chỉ là ý
kiến của cá nhân trong lĩnh vực ngữ nghĩa từ
vựng Công Giáo với thiện chí giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt.” (tr. 8)
Hai dòng chữ “không
phải là ‘tiếng nói của giáo quyền’”, và
“chỉ là ý kiến của cá nhân trong lĩnh vực ngữ nghĩa” được tôi nhấn mạnh với
sự đồng cảm của kẻ cùng mắc bệnh săm soi chữ nghĩa giống như soạn giả.
Quả thật, như tôi từng trải nghiệm, khi đem “ý kiến của cá nhân trong lĩnh vực ngữ nghĩa” mà nói khác với những
gì đã từ lâu định hình thành “thói quen” hay “lẽ đương nhiên” trong tôn giáo
mình thì rất dễ nhận lấy sự không hài lòng của đồng đạo hay giáo quyền.
5. Linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ (giáo xứ Phanxicô Xaviê,
tục gọi nhà thờ Cha Tam) đã tám mươi tuổi ta (ngài sinh năm 1942), và sức khỏe ngài
đang chịu ảnh hưởng của lớp người tuổi hạc... Nghĩ đến công khó của vị linh mục
cao niên bao năm qua tỉ mẩn với đôi quang gánh chữ nghĩa nhà Đạo trên vai, lòng
tôi phát sinh một tình cảm mà tôi không biết dùng từ gì diễn tả cho xác đáng.
Rồi nghĩ đến bạn hiền tri kỷ tặng sách quý nhằm trợ giúp công việc biên khảo
phụng đạo tôi đang đeo đuổi, tôi vui thầm tấc dạ.
HUỆ KHẢI
Phú Nhuận, 23-12-2021