Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2023

SO SÁNH KINH CỨU KHỔ ÂM HÁN VIỆT

 

SO SÁNH KINH CỨU KHỔ ÂM HÁN VIỆT

HUỆ KHẢI

Bổn đạo Cao Đài tụng Kinh Cứu Khổ theo âm Hán Việt. Tuy nhiên, giữa các bản tụng này lại có sai khác. Chúng tôi đã sửa lại tất cả các lỗi chánh tả trong các bản âm Hán Việt đã lưu hành trước khi so sánh và trích dẫn như dưới đây.

I. CÁC BẢN ÂM HÁN VIỆT ĐƯỢC CHỌN

Chúng tôi chọn hai bản tụng âm Hán Việt trích trong Kinh Tận Độ của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài như sau:

Bản TG92: Là bản Kinh Tận Độ, do Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài in tại Xí Nghiệp In Tài Chính Quảng Nam Đà Nẵng, 1992 (tr. 109-110).

Bản TG95: Là bản Kinh Tận Độ do Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài in tại Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 1995 (tr. 144-145).


Hai bản âm Hán Việt nói trên được so sánh lần lượt với các bản âm Hán Việt sau đây:

Bản MS: Là bản chữ Nho của Minh Sư, chúng tôi chuyển sang âm Hán Việt để tiện so sánh. (Bản chữ Nho này do Huệ Khai Đào Thiên Niên tặng Huệ Khải năm 2007.)


Bản LXQ: Là bản Quan Thế Âm Bồ Tác[t] Cứu Khổ Kinh của diễn giả Lâm Xương Quang, in tại nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1929 (tr. 8).


Bản TN36: Là bản Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo, do Tòa Thánh Tây Ninh in tại nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1936 (tr. 91-92).


Bản TN90: Là bản Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo, do Tòa Thánh Tây Ninh in tại xí nghiệp in Bao Bì Dược, 1990 (tr. 100-101).

II. CÁC SAI KHÁC TRONG CÁC BẢN ÂM HÁN VIỆT

Khi so sánh, chúng tôi thấy có những khác biệt như sau:

1. MS: Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Cứu Khổ Chơn Kinh. .

TG92/LXQ: Không có.

TG95: Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát.

TN36/TN90: Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát.

2. MS: [bách] thiên vạn ức Phật

TG92: Bách thiên vạn ức Phật

TG95/LXQ29/TN36/TN90: thiên vạn ức Phật

Ghi chú: Chữ đọc hay bách.

3. MS: tam tai [bách] nạn

TG92: tam tai bách nạn

TG95/LXQ/TN36/TN90: tam tai nạn

Ghi chú: Chữ đọc hay bách.

4. MS: Nhược nhơn tụng đắc

TG92/LXQ: Nhược nhơn tụng đắc

TG95/TN36/TN90: Nhược hữu nhơn tụng đắc

5. MS: linh [lịnh] nhơn thân

TG92/TN36/TN90: linh nhơn thân

TG95/LXQ: lịnh nhơn thân

Ghi chú: Chữ đọc linh hay lịnh.

6. MS: chánh [chính] điện Bồ Tát 殿

TG92: chính điện Bồ Tát

TG95/LXQ/TN36/TN90: chánh điện Bồ Tát

Ghi chú: Chữ đọc chánh hay chính.

7. MS: ngũ [bách] A La Hán

TG92: ngũ bách A La Hán

TG95/LXQ/TN90: ngũ A La Hán

Ghi chú: Chữ đọc hay bách.

8. MS: Tự ngôn Quan Thế Âm

TG92/TG95/TN36/TN90: Tự ngôn Quan Thế Âm

LXQ: Tự nhiên Quan Thế Âm

9. MS: cần độc thiên vạn biến

TG92/LXQ: cần độc thiên vạn biến

TG95: cần độc thiên vạn biến

TN36/TN90: cần đọc thiên vạn biến

Ghi chú: Chữ có âm Hán Việt là độc; nghĩa Nôm là đọc. Hai bản của Tây Ninh nên sửa lại là độc.

10. MS: tín thọ phụng hành

TG92: tín thọ phùng hành

TG95/LXQ/TN36/TN90: tín thọ phụng hành

Ghi chú: Chữ đọc là phụng; bản Truyền Giáo 1992 in sai là phùng.

11. MS: Kim kim đế

TG92/TG95/LXQ: Kim kim đế

TN36/TN90: Kim ba kim ba đế

Ghi chú: Chữ đọc là .

12. MS: tỳ [] lê nễ đế

TG92: tỳnễ đế

TG95: tỳni đế

LXQ: nễ đế

TN36/TN90: ni đế

Ghi chú: Chữ đọc là tỳ, cũng viết là .

Chữ đọc là nễ (âm Bắc Kinh đọc là , tương tự như trong tiếng Việt). Bản Truyền Giáo 1995, và hai bản của Tây Ninh nên sửa lại là nễ.

13. MS: ta bà ha

TG92: bồ đề tát bà ha

TG95/LXQ/TN36/TN90: ta bà ha

14. MS/LXQ/TN36: Kết thúc ở ba chữ ta bà ha 莎 婆 訶; không kèm theo câu niệm Nam mô...”.

TG92/TG95: Nam mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.

TN90: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

III. MẤY ĐỀ NGHỊ

1. Nên thống nhất hai câu mở đầu bài kinh là Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát./ Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.

1.1. Chiều ngày 10-9-2023, chúng tôi nhập câu “ ” [Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát] vào công cụ tìm kiếm Google, thì trong 0,24 giây có ngay 3.820 kết quả. Khi nhập câu ” [Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát] vào công cụ tìm kiếm Google, thì trong 0,15 giây chỉ có được hai (2) kết quả. Như vậy, chứng tỏ câu “Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” phổ biến hơn.


 1.2. Các chữ “Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm” và “Cứu Khổ Cứu Nạn” đứng trước các chữ “Quan Thế Âm Bồ Tát” là thành phần thuộc về hồng danh Đức Bồ Tát; do đó, nên viết hoa.

Nói cách khác, “Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” và “Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” đều là hai hồng danh của Đức Bồ Tát.

2. Đọc hay bách là do thói quen mỗi người; nhưng đọc thì dường như phổ biến hơn.

3. Cách đọc “Nhược hữu nhơn tụng đắc” đã phổ biến trong cộng đồng Cao Đài; do đó, có lẽ nên thống nhất đọc là Nhược hữu nhơn tụng đắc”. Như đã so sánh trong Khảo Dị Kinh Cứu Khổ, sáu bản CBETA, 1727, 1830, 1851, 1905, 1928 đều viết “Nhược hữu nhơn”; chỉ có bản MS 1929 viết “Nhược nhơn”.

4. Nên thống nhất đọc là Tự ngôn Quan Thế Âm”.

5. Nên thống nhất đọc là “cần độc thiên vạn biến”.

6. Nên thống nhất đọc là “Kim kim đế”.

7. Nên thống nhất đọc là “tỳnễ đế”.

8. Nên thống nhất đọc là “ta bà ha”.

9. Khi cúng tứ thời, cuối bài “bửu cáo” xưng tán Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, chúng ta niệm hồng danh Đức Nhiên Đăng Cổ Phật.

Cuối bài “bửu cáo” xưng tán Đức Thái Thượng Đạo Tổ, chúng ta niệm hồng danh Đức Thái Thượng Đạo Tổ.

Cuối bài “bửu cáo” xưng tán Đức Khổng Thánh Tiên Sư, chúng ta niệm hồng danh Đức Khổng Thánh Tiên Sư.

Vậy, khi kết thúc bài Kinh Cứu Khổ, có lẽ nên thống nhất câu niệm là: “Nam mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nhiêu Lộc, 09-9-2023

HUỆ KHẢI