Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2016

ĐĐVU 05 / KIM QUANG THẦN CHÚ / Minh Tuệ Khai

Image result for light

Kim Quang Thần Chú 金光神咒 trong kinh đạo Lão Trung Quốc, thường có vài dị bản. Thần chú này được dùng trong nhiều tịnh trường ở Sài Gòn trước đây, đọc theo âm Hán-Việt. Vì nhiều chữ không dễ hiểu nghĩa, trải qua thời gian lâu dài đã phát sinh dị bản do đọc sai, hiểu sai.
Sau đây xin đối chiếu năm bản thần chú:
Bản A, trích trong Vô Cực Thánh Đế Đại Động Chân Kinh 無極聖帝大洞真經.[1]
Bản B, trích trang 19b-20a quyển Văn Xương Đại Động Chân Kinh 文昌大洞真經, khắc in năm Đinh Tỵ (1857), niên hiệu Hàm Phong đời Thanh.

Bản C, trích trang 140 quyển Vạn Pháp Quy Tông 萬法歸宗¸ Hoa Linh xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994. Trang 164 và 178 còn có thêm hai bài Kim Quang Thần Chú với nhiều chữ khác biệt, nhưng để khỏi rườm rà, không trích đưa vào đây.

Bản D, trích trang 5 quyển Thổ Địa Táo Vương Kinh 土地王經, bản khắc gỗ xưa của đền Ngọc Sơn (hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội), 21 trang (khổ 27,5x15,5cm), gồm chữ Hán và tiếng Việt, tái bản năm 1940 (Canh Thìn), niên hiệu Bảo Đại, do Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm công bố.[2] Khi in lại đây đã sửa vài lỗi chính tả tiếng Việt.



Bản E, là bản dùng trong một số tịnh trường ở Sài Gòn trước kia.
A, B, C, D
天地玄宗
D, E
Thiên địa huyền tôn,
Ngày xưa, triều đình buộc kiêng húy chữ tông nên phải đọc chệch ra là tôn. Lẽ ra nên đọc là tông, âm Bắc Kinh đọc là [zong].
A, B, C, D
萬氣本根
D, E
Vạn khí bản (bổn) căn.
Bản D đọc là bản, giọng Bắc. Bản E đọc là bổn, giọng Nam.
A
廣修

Quảng tu vạn kiếp,
B, D
廣修
D, E
Quảng tu ức kiếp,
C
廣修

Quảng tu hạo kiếp,
Ở đây vạn không phải là mười ngàn, và ức cũng không phải là trăm triệu. Vạn và ức đều là hư số, nghĩa là vô số.
Hạo kiếp: Kiếp lớn (thời gian rất lâu dài, không tính xuể), cũng tương tự như vô số kiếp.
A, B, C, D
證吾神通
D
Chứng ngô thần thông.


E
Chứng ngộ thần thông.
Ngô thần thông: Thần thông của tôi (ta).
A, B, C, D
三界內外
D, E
Tam giới nội ngoại,
Tam giới: Ba cõi, gồm dục giới 欲界, sắc giới 色界, vô sắc giới 無色界. Theo Đái Nguyên Trường (Tiên Học Từ Điển), ba cõi này ở trong thân người. Luyện tinh có thể vượt ra ngoài dục giới. Luyện khí có thể vượt ra ngoài sắc giới. Luyện thần có thể vượt ra ngoài vô sắc giới.
A, B, D
惟道獨尊
D, E
Duy Đạo độc tôn.
C
惟帝獨尊

Duy Đế độc tôn.
A, B, C, D
體有金光
D, E
Thể hữu Kim Quang,
Kim quang: Ánh sáng sắc như vàng ròng (golden light). Ở đây hiểu là thần Kim Quang hộ mạng người chân tu.
A, D
吾身
D
Phú ánh ngô thân.
B
吾身

Phúc (phú) hộ ngô thân.
C
大映吾身

Đại ánh ngô thân.


E
Phúc ưởng ngô thân.
Phúc (cũng đọc phú như bản D): Che chắn, che đậy (để bảo vệ).
Ánh: Che giấu.
Hộ: Che chở.
Ưởng là tấm tức, bất mãn (), không vui, bực bội (). Do đó, đọc ưởng như bản E không hợp nghĩa.
A, B, C, D
視之不見
D, E
Thị chi bất kiến,
A, B, C, D
聽之不聞
D, E
Thính chi bất văn.
A, B, C, D
包羅天地
D, E
Bao la thiên địa,
A, C, D
育群生
D, E
Dưỡng dục quần sinh (sanh).
B
育群生

Quảng dục quần sinh.
Bản D đọc là sinh, giọng Bắc. Bản E đọc là sanh, giọng Nam. Quảng: Rộng rãi.
A
持萬遍

Tụng trì vạn biến,
B, D
持萬遍
D, E
Thụ (thọ) trì vạn biến,
C
持育萬遍

Trì dục vạn biến,
Tụng trì: Đọc hoài không bỏ.
Vạn biến: Muôn lần, nên hiểu là vô số lần.
Thọ (thụ) trì: Nhận lấy và không buông bỏ. Bản D đọc là thụ, giọng Bắc. Bản E đọc là thọ, giọng Nam.
Trì dục: Phù trợ (giúp đỡ) và nuôi dưỡng.
A, B, C, D
身有光明
D, E
Thân hữu quang minh.
A, B, C, D
三界侍衛
D, E
Tam giới thị vệ,
Thị: Hầu cận, săn sóc, chăm nom. Vệ: Giữ gìn, bảo vệ.
A
五帝

Ngũ Đế tứ nghinh.
B, D
五帝
D, E
Ngũ Đế nghinh.
C
五帝

Ngũ Đế đồng nghinh.
Tứ nghinh: Chờ nghinh tiếp.
Tư nghinh: Trông coi và nghinh tiếp.
Đồng nghinh: Cùng nhau nghinh tiếp.
A, B, C, D
萬神朝禮
D, E
Vạn thần triều lễ,
A, B, C, D
役使雷霆
D, E
Dịch sử lôi đình.
Dịch sử: Sai khiến. Lôi đình: Sấm sét.
A, B, D
鬼妖喪膽
D, E
Quỷ yêu táng đởm,
C
妖怪喪膽

Yêu quái táng đởm,
Táng đởm (đảm): (Sợ hãi) vỡ mật.
A, B, D
精怪忘形
D, E
Tinh quái vong hình.
C
鬼神忘形

Quỷ thần vong hình.
A, B, C, D
內有霹靂
D
Nội hữu tích (phích) lịch,


E
Nội hữu thích lịch,
Tích (phích) lịch: Sét đánh. Bản E đọc thích thì sai.
A, B, C, D
雷神隱名
D, E
Lôi thần ẩn danh.
A, B, C, D
洞慧交徹
D
Động huệ giao triệt,


E
Động tuệ giao triệt,
Huệ (tuệ): Trí huệ, trí sáng suốt của người đắc đạo.
Động huệ: Trí huệ trong động. Động là nơi tiên ở, là động tiên. Vậy động huệ có thể hiểu là trí huệ của thần tiên. Ngày xưa, triều đình buộc kiêng húy chữ Huệ nên phải đọc chệch ra là tuệ. Đúng ra phải đọc là huệ, âm Bắc Kinh đọc là [hui]. Lục Tổ đạo hiệu là Huệ Năng 慧能, âm Bắc Kinh đọc là [hui-neng].
Giao triệt: Qua lại thông suốt. Bản D in giao chit vì giọng miền Bắc hay lẫn lộn hai âm tr- ch-.
A, B, C
五氣

Ngũ khí đằng đằng.
D
五氣
D
Ngũ khí huy đằng.


E
Ngũ khí uy đằng.
Đằng: Bốc lên, xông lên, bay lên.
Huy: Sáng sủa, sáng rỡ, ánh sáng; chiếu sáng, soi sáng. Bản E đọc uy vì giọng miền Nam không phân biệt huy, uy, quy.
A, B, C, D
金光速現
D, E
Kim Quang tốc hiện,
Kim Quang: Thần Kim Quang hộ mạng.
Tốc hiện: Mau hiện hình.
A, B
覆護真人

Phú (phúc) hộ chân nhân.
C
覆護壇庭

Phú (phúc) hộ đàn đình.
D
覆護真形
D, E
Phú (phó) hộ chân (chơn) hình.
Phú (phúc, phó): Che chắn, che đậy (để bảo vệ). Bản D đọc là phú, giọng Bắc. Bản E đọc là phó, giọng Nam.
Hộ: Che chở, giúp đỡ.
Chân (chơn) hình: Hình thật. Bản D đọc là chân, giọng Bắc. Bản E đọc là chơn, giọng Nam.
A
急急如玉皇
光降律令敕
E
Cấp cấp như Ngọc Hoàng
quang giáng luật lịnh sắc.
B
急急如元皇上帝光降律令敕
金光神諱

Cấp cấp như Nguyên Hoàng Thượng Đế luật lịnh sắc.
Kim Quang thần húy
# # [3]
C
急急如律令

Cấp cấp như luật lịnh.
D
急急如玉皇
律令敕

Cấp cấp như Ngọc Hoàng
luật lịnh sắc.
Đọc xong Kim Quang Thần Chú, tịnh viên thuộc một số tịnh trường ở Sài Gòn trước đây họa phù (bùa) Tam Thiên.[4] Cuối cùng, tịnh viên thuộc các tịnh trường này niệm lục tự chơn ngôn, với điều kiện các vị ấy đã trường trai tuyệt dục.[5]
Theo truyền thống đạo học, thần chú như một mật khẩu (password) để bắt liên lạc, kết nối với thần linh. Do đó người xưa cho rằng không cần dịch nghĩa thần chú.
Tuy nhiên, vì không hiểu nghĩa các từ Hán-Việt, tịnh viên đọc Kim Quang Thần Chú dễ phát âm sai, hoặc các tịnh trường khi truyền thần chú lại cho tịnh viên dễ chép sai chánh tả, càng lâu ngày càng sai lệch nhiều hơn.
Cân nhắc giữa bản D, E là chính (tham khảo ba bản A, B, C), xin trình bày sau đây một văn bản Kim Quang Thần Chú có dung hòa các dị biệt từ ngữ, rồi tạm dịch nghĩa:
金光神咒
KIM QUANG THẦN CHÚ
TẠM DỊCH
天地玄宗
萬氣本根
Thiên địa huyền tôn,
Vạn khí bổn căn.
Cái gốc huyền diệu của trời đất là căn cội (gốc rễ, bản thể) của vạn khí.
廣修億劫
證吾神通
Quảng tu ức kiếp,
Chứng ngô thần thông.
Tu hành trải qua vô số kiếp mới chứng được thần thông của mình.
三界內外
惟道獨尊
Tam giới nội ngoại,
Duy Đạo độc tôn.
Trong và ngoài ba cõi, chỉ có Đạo là tôn quý nhất.
體有金光
覆映吾身
Thể hữu Kim Quang,
Phú ánh ngô thân.
Thân ta có thần Kim Quang che chở cho ta.
視之不見
聽之不聞
Thị chi bất kiến,
Thính chi bất văn.
Trông mà không thấy, lóng mà chẳng nghe.
包羅天地
養育群生
Bao la thiên địa,
Dưỡng dục quần sinh.
Trời đất bao la, nuôi dưỡng quần sinh.
受持萬遍
身有光明
Thọ trì vạn biến,
Thân hữu quang minh.
Thọ trì (trì tụng) hoài không bỏ, thân thể sẽ sáng rỡ.
三界侍衛
五帝司迎
Tam giới thị vệ,
Ngũ Đế tư nghinh.
Ba cõi chăm nom và bảo vệ, Năm Vua trông coi và đón rước.
萬神朝禮
役使雷霆
Vạn thần triều lễ,
Dịch sử lôi đình.
Vô số thần đến chầu lễ, sai khiến cho sấm nổ.
鬼妖喪膽
精怪忘形
Quỷ yêu táng đởm,
Tinh quái vong hình.
Quỷ yêu sợ vỡ mật, tinh quái sợ mất hình (biến mất).
內有霹靂
雷神隱名
Nội hữu tích lịch,
Lôi thần ẩn danh.
Bên trong có sấm nổ, thần sấm giấu tên.
洞慧交徹
五氣辉騰
Động huệ giao triệt,
Ngũ khí huy đằng.
Động huệ thông suốt, năm khí xông lên sáng rỡ.
金光速現
覆護真形
Kim Quang tốc hiện,
Phó hộ chơn hình.
Thần Kim Quang mau hiện đến, bao phủ và bảo vệ chân hình.
急急如玉皇光降律
令敕
Cấp cấp như Ngọc Hoàng quang giáng [6] luật lịnh sắc.
Gấp rút giáng lâm như sắc lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Như vậy, nên sửa thói quen đọc sai bốn chữ như sau:
Chữ thường đọc sai
Nên đọc cho đúng
Chứng ngộ thần thông
Chứng ngô thần thông
Nội hữu thích lịch
Nội hữu tích lịch
Động tuệ giao triệt
Động huệ giao triệt
Ngũ khí uy đằng
Ngũ khí huy đằng
Bản Kim Quang Thần Chú dùng trong các tịnh trường ở Sài Gòn trước đây từng được Đức Tôn Sư Đông Phương Chưởng Quản dạy sửa lại tám chữ như sau:
“Từ đây về sau sẽ đúng như câu chú Kim Quang trong thời tịnh là Ngũ Thần v thủ, Bát Thánh h trì.[7]
(Như vậy, câu Vạn thần triều lễ, dịch sử lôi đình phải đổi lại là Ngũ Thần vệ thủ, Bát Thánh hộ trì.)
Cũng nên biết rằng Ngũ Thần vệ thủ, Bát Thánh hộ trì, 五神衛守, 八聖護持hai câu có trong bài Văn Xương Đế Quân Khai Tâm Thông Minh Thần Chú 文昌帝君開心聰明神咒,[8] mở đầu với bốn câu:
Cửu Thiên Đại Đế / Thân phi bạch y / Nhựt nguyệt chiếu diệu / Càn khôn oát tùy. 九天大帝 / 身披白衣 / 日月照耀 / 乾坤斡隨.
Môn sanh Cao Đài Chiếu Minh gọi đây là bài Cửu Thiên mở đầu với bốn câu:
Cửu Thiên Đại Lang / Thân phi bạch y / Nhựt nguyệt chiếu diệu / Càn khôn hoát trì.
Diệu dụng huyền nhiệm của Kim Quang Thần Chú
Tịnh viên Cao Đài được giải thích rằng đọc chú Kim Quang khi bắt đầu hành thiền (tịnh luyện) là cầu khẩn Thần Kim Quang đến bảo hộ mình.
Đức Tôn Sư Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Ngồi bán già ban sơ tu tập
Định tâm trung thâu thập giác quan
Bấy lâu thế sự rộn ràng
Cậy thần hộ mạng Kim Quang giữ gìn.[9]
Sáu năm sau, Đức Tôn Sư từ bi, dạy cho môn sanh tịnh viên hiểu thêm rằng tụng chú Kim Quang còn để giải trừ nghiệp thân, trợ duyên cho những thời tu thiền suôn sẻ.
Đức Tôn Sư dạy:
“… lại còn những nghiệp thân riêng của mỗi người. Khi ngồi tịnh, người thì bị nhiều, người bị ít, hoặc tối thiểu sự ngứa ngáy rọ rạy, châm chích. Vì vậy mới có câu chú như Kim Quang Thần Chú, v.v… Niệm để tiêu trừ mòn bớt nghiệp thân, trợ duyên cho người ngồi tịnh trong giờ hành pháp.” [10]
MINH TUỆ KHAI
22-5-2012



[1] http://dandao.myweb.hinet.net/fb2103.htm.
Hoặc: http://www.jnk.org.tw/w01-09.htm.
[2] http://www.nomfoundation.org.
[3] Tên húy # # của thần không có trong tự điển. Đây là truyền thống đạo Lão, tín đồ chỉ nhận biết mặt chữ một số tên (và thuật ngữ), nhưng không phát âm được (vì không có âm và chữ ghi trong tự điển), đây cũng là hình thức kỵ húy.
[4] Theo bản Văn Xương Đại Động Chân Kinh (Hàm Phong 1857), các đạo sĩ dùng một dạng phù khác của đạo Lão.
[5] Theo bản Văn Xương Đại Động Chân Kinh (Hàm Phong 1857), không thấy đọc lục tự chơn ngôn.
[6] Quang giáng 光降: Cũng như quang lâm 光臨.
[7] Thiên Lý Đàn, 28-5 Kỷ Dậu (12-7-1969).
[8] http://k5744038.pixnet.net/blog/category/1457727
http://www.acic.com.tw/chart.htm
http://hi.baidu.com/%C7%E5%BE%BB%B1%A7%D2%BB/ blog/index/8
[9] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 24-4 Bính Ngọ (12-6-1966).
[10] Minh Lý Thánh Hội, 09-01 Nhâm Tý (24-02-1972).